Nắm chắc tính an toàn của Thuốc chống cúm khi sử dụng, nhất là đối với những trường hợp đặc biệt như người mang thai, trẻ bú mẹ... người sử dụng sẽ mạnh dạn hơn khi dùng Thuốc. Hai Thuốc đang được sử dụng hiện nay là tamiflu và relenza.
Nắm chắc tính an toàn của Thuốc chống cúm khi sử dụng, nhất là đối với những trường hợp đặc biệt như
người mang thai, trẻ bú mẹ... người sử dụng sẽ mạnh dạn hơn khi dùng Thuốc. Hai Thuốc đang được sử dụng hiện nay là tamiflu và relenza.
Với thai nhi
Tamiflu không chỉ đang dùng trong cúm A/H1N1 gây dịch mà từng dùng nhiều trong cúm mùa. Dưới đây là các số liệu nghiên cứu về tính an toàn của chúng.
Cúm gây sốt và bản thân sự tăng thân nhiệt này đã làm tăng xuất độ khuyết tật ống thần kinh gây dị dạng (Morentti ME-2005). Do vậy, việc nghiên cứu tỷ lệ dị dạng thai quan trọng với
người mang thai phải đối chiếu với tỷ lệ dị dạng thai quan trọng ở
người mang thai không dùng Thuốc (gọi là tỷ lệ trong dân số chung).
Trên mô hình nhau thai ngoài cơ thể: Tamiflu chuyển hóa mạnh trong nhau thai. Chất chuyển hóa qua nhau thai không hoàn toàn, có tích lũy nhỏ ở bào thai.
Trên cúm mùa: Số liệu của Nhật Bản (5/2009) cho thấy, số
người mang thai dùng tamiflu do Bệnh viên Toranomom cung cấp (65 người) và do Viện thông tin dược phẩm Nhật Bản cung cấp (25 người), tổng cộng 90 người. Liều dùng: Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 75mg, đợt dùng 5 ngày. Trong đó 90 người nhận thấy có: 3 sẩy thai tự nhiên, 1 chấm dứt thai kỳ vì mục đích điều trị, 4 sinh non, 7 trẻ sinh ra có cân nặng thấp, chỉ có 1 trẻ có dị dạng quan trọng (tỷ lệ:1,1%). Tỷ lệ này nằm trong giới hạn tỷ lệ trong dân số chung (1 - 3%).
Báo cáo khảo sát hậu mại (năm 2005) cho biết, trong 65 trường hợp có thai dùng tamiflu (không xác định rõ thời điểm dùng) có: 10 sẩy thai, 6 chấm dứt thai kỳ vì mục đích điều trị, chỉ có 1 tam nhiễm thể 21 và 1 bị dị dạng quan trọng không có não. Trường hợp tam nhiễm thể 21 chưa thể quy ngay do dùng tamiflu (vì thường liên quan đến yếu tố khác). Trường hợp dị dạng quan trọng chỉ là 1 (tỷ lệ: 1, 53%). Tỷ lệ này nằm trong giới hạn tỷ lệ trong dân số chung (1 - 3%). Như vậy, tamiflu an toàn với thai.
Với relenza, liều dùng mỗi lần hít 10mg, mỗi ngày hít 2 lần, mỗi đợt 5 ngày. Trong quan sát lâm sàng ngẫu nhiên thấy: có 3 thai phụ có dùng relenza (như cách trên) có 1 sẩy thai tự nhiên, 1 chấm dứt thai kỳ do mục đích điều trị và 1 sinh con khỏe mạnh (sau khi đã dùng relenza ở tuần thứ tư của thai kỳ). Số liệu nghiên cứu này còn quá nhỏ, chưa đủ để có một kết luận tin cậy.
Với trẻ bú mẹ
Nếu người mẹ dùng tamiflu theo liều uống (như trên) thì nồng độ cao nhất tiết vào sữa của tamiflu và của chất chuyển hóa có hoạt tính theo tamiflu là 81,6ng/L, ứng với liều dùng qua sữa là 0,012mg/ngày. Trong khi đó, liều dùng điều trị an toàn của tamiflu cho trẻ là 2-4mg/ ngày. Như vậy, tamiflu tiết vào sữa với nồng độ thấp, chỉ bằng 0,6 - 1,2% liều điều trị an toàn cho trẻ em.
Nếu người mẹ dùng relenza theo liều hít, mỗi lần 15mg, mỗi ngày 2 lần trong 5 ngày, thì nồng độ lớn nhất trong sữa mẹ xấp xỉ 100ng/L. Một trẻ nặng 5kg mỗi ngày bú khoảng 750ml sữa, tương đương với khoảng 0,075mg relenza. Trong khi đó liều điều trị an toàn cho trẻ em là 10mg/ngày. Như vậy, relenza tiết vào sữa với mức thấp chỉ bằng 0,75% liều điều trị an toàn cho trẻ em.
Như vậy, tamiflu và relenza tiết vào sữa đều có nồng độ thấp không gây hại cho trẻ bú mẹ.
Từ các số liệu nghiên cứu trên, các nhà lâm sàng đưa ra khuyến cáo: Cúm A/H1N1 gây dịch cũng như cúm mùa có nguy cơ cao với
người mang thai đặc biệt trong cuối thai kỳ. Do đó, phải dùng kháng sinh chống cúm cho
người mang thai. Tamiflu an toàn với thai. Vì thế không nên lưỡng lự khi dùng. Sự lưỡng lự sẽ làm chậm trễ, có hại. Theo Trung tâm kiểm soát và phòng chống dịch bệnh Mỹ (CCD), các trường hợp Tu vong ở nữ một phần là do dùng Thuốc chậm (6 ngày sau khi mắc).
Nên ưu tiên chọn tamiflu vì đã có tương đối đầy đủ thông tin về tính an toàn, trong khi thông tin về tính an toàn của relenza lại chưa đầy đủ. Hơn nữa tamiflu dễ dùng hơn. Người cho con bú vẫn dùng được tamiflu, relenza vì hai chất này tiết vào sữa với mức thấp và không gây hại cho trẻ bú mẹ.
DS. Bùi Văn Uy