Khi trẻ sinh ra cơ thể còn non nớt, hệ miễn dịch vẫn chưa được hoàn thiện, sức đề kháng còn kém. Những trẻ ở cùng một lứa tuổi, cùng một điều kiện chăm sóc và môi trường sống, khi phải đối diện với những tác nhân gây bệnh từ bên ngoài như dịch bệnh, thay đổi thời tiết... thì có kết quả khác nhau, có trẻ bị mắc bệnh, có trẻ lại không, đấy là do sự khác biệt về hệ thống miễn dịch của trẻ.
Khi hệ thống miễn dịch mạnh có thể làm giảm nguy cơ nhiễm virus và vi khuẩn, giúp cơ thể chống lại tác nhân gây bệnh, giảm bớt thời gian điều trị và tăng tốc quá trình phục hồi sau khi khỏi bệnh. Hệ thống miễn dịch được tạo thành từ một mạng lưới các tế bào, mô và cơ quan phối hợp với nhau tạo thành hệ thống phòng thủ của cơ thể chống lại các sinh vật truyền nhiễm, tác nhân gây bệnh. Tuy nhiên, hệ thống miễn dịch mạnh yếu khác nhau do các yếu tố như tuổi tác, thói quen ăn uống và lối sống.
Một chế độ ăn uống đủ nhu cầu, cân bằng, giàu axit amin thiết yếu sẽ giúp trẻ tăng cường hệ miễn dịch. nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự thiếu hụt protein hoặc axit amin trong chế độ ăn uống có thể làm suy giảm chức năng miễn dịch, giảm khả năng chống lại sự xâm nhập của vius, vi khuẩn gây bệnh. các amino acid được hấp thu trong cơ thể do protein cung cấp có vai trò hết sức quan trọng: là thành phần chính của kháng thể giúp cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn, thực hiện chức năng miễn dịch, đồng thời là thành phần của các men và các nội tiết tố rất quan trọng trong hoạt động chuyển hóa của cơ thể. chế độ dinh dưỡng của trẻ qua các giai đoạn phát triển giúp tăng cường sức đề kháng như sau:
nuôi con bằng sữa mẹ: cho trẻ bú ngay sau khi sinh, bú hoàn toàn sữa mẹ trong 6 tháng đầu, cho trẻ bú đến 24 tháng tuổi hoặc lâu hơn và tiêm phòng là cách tốt nhất để bảo vệ sức khỏe cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên tốt nhất cho trẻ, sữa mẹ có đầy đủ các thành phần dinh dưỡng với tỷ lệ cân đối phù hợp với hệ tiêu hóa và hấp thu của trẻ. sữa mẹ còn có kháng thể giúp trẻ tăng cường sức đề kháng chống lại các bệnh nhiễm trùng. việc nuôi con bằng sữa mẹ sẽ giảm nguy cơ thiếu dinh dưỡng hoặc thừa dinh dưỡng, các bệnh mạn tính không lây khi trưởng thành, đặc biệt là bệnh lý tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường,...
ăn bổ sung đúng độ tuổi: ăn bổ sung là hình thức bổ sung thêm thức ăn khác cho trẻ ngoài sữa mẹ. theo khuyến nghị của tổ chức y tế thế giới, thời điểm cho trẻ ăn bổ sung là khi trẻ tròn 6 tháng tuổi (180 ngày), do nhu cầu của trẻ tăng cao sữa mẹ không đáp ứng đủ vì vậy cần bổ sung thêm thức ăn cho trẻ. không cho trẻ ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn, khi trẻ ăn thiếu về số lượng và chất lượng, thiếu vệ sinh dẫn đến suy dinh dưỡng và bệnh tật. giai đoạn cho trẻ ăn bổ sung đến khi cai sữa là thời kỳ đe dọa suy dinh dưỡng nhất đối với trẻ.
Ăn bổ sung là quá trình trẻ từ từ làm quen, tiếp xúc với các thức ăn như người lớn, đồng thời bú mẹ ngày càng ít hơn, quá trình bé chuyển dần từ thức ăn tinh (sữa mẹ) sang thức ăn thô (4 nhóm thực phẩm). Vì vậy, nguyên tắc cho trẻ ăn bổ sung là ăn từ ít đến nhiều, từ lỏng đến đặc.
Trong 6 tháng đầu trẻ được mẹ truyền kháng thể qua sữa mẹ, vì vậy trẻ ít bị bệnh. Sau 6 tháng tuổi trẻ dễ bị mắc bệnh, lượng kháng thể là do tự cơ thể trẻ đảm nhiệm, do vậy hệ miễn dịch của trẻ còn thiếu và yếu. Vì vậy bất kỳ một thức ăn bổ sung nào cho trẻ ăn cũng phải được bảo quản và chế biến đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Bữa ăn bổ sung của trẻ, tùy theo độ tuổi phải đảm bảo cung cấp đủ các chất dinh dưỡng thiết yếu từ 4 nhóm thực phẩm: nhóm glucid, protein, lipid, vitamin và chất khoáng. cho ăn đủ nhu cầu, cân đối các chất dinh dưỡng giúp cho trẻ phát triển tốt, ngược lại nếu trẻ ăn thiếu hoặc dư thừa sẽ có nguy cơ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thể thấp còi, thể thừa cân béo phì, đồng thời với chế độ ăn nhiều chất đạm, khiến hệ tiêu hóa phải làm việc mệt mỏi, dễ rối loạn tiêu hóa, gây phân sống, tiêu chảy…
Chế biến thức ăn cho trẻ phải phù hợp theo từng lứa tuổi. Với trẻ dưới 12 tháng, các loại thức ăn cần xay thành bột, thái nhỏ, nghiền nát, nấu kỹ cho dễ tiêu. Khi trẻ trên 12 tháng và có đủ răng hàm cần cho trẻ ăn thô hơn để tập cho trẻ ăn nhai. Trẻ từ 6-7 tháng cho trẻ ăn thịt, trứng; từ 7-8 tháng tập cho trẻ ăn cá, tôm, cua, đậu đỗ, vừng, lạc...; từ 9 tháng có thể tập cho trẻ ăn tất cả các loại thức ăn giống người lớn.
Số bữa ăn của trẻ: Sau 6 tháng, trẻ bú mẹ là chính 1-2 bữa bột loãng và nước quả, có thể cho trẻ uống thêm sữa ngoài thay cho một bữa bột (150-200ml); từ 7-9 tháng, bú mẹ 2-3 bữa bột đặc (10%) nước quả hoặc hoa quả nghiền, từ 10-12 tháng, bú mẹ 3-4 bữa bột đặc (15%), hoặc cháo nước quả hoặc hoa quả nghiền.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự thiếu hụt protein hoặc axit amin trong chế độ ăn uống có thể làm suy giảm chức năng miễn dịch, giảm khả năng chống lại sự xâm nhập của vius, vi khuẩn gây bệnh.
Chế độ ăn cho trẻ 1-2 tuổi: Tiếp tục cho trẻ bú mẹ, nếu mẹ không có sữa cho bé uống sữa ngoài 300ml-500ml/ngày, ăn 4 bữa cháo hoặc súp mỗi ngày, ăn quả chín theo nhu cầu của trẻ.
Chế độ ăn cho trẻ từ 2-3 tuổi: Chuyển từ chế độ ăn cháo sang ăn cơm nát, nhưng vẫn phải cho ăn thêm cháo mì, súp, phở và uống sữa, trẻ vẫn cần có chế độ ăn riêng.
Chế độ ăn cho trẻ từ 3-5 tuổi: Số bữa ăn hàng ngày giống như cho trẻ từ 2-3 tuổi (4 bữa) nhưng lượng ăn phải tăng lên. Ở lứa tuổi này nên cho trẻ ăn các món mà trẻ yêu thích. Tuyệt đối không nên cho trẻ ăn bánh kẹo, nước ngọt, quả chín ngọt trước mỗi bữa ăn.
Trẻ mẫu giáo và học sinh, cần ăn uống điều độ, đủ nhu cầu các chất dinh dưỡng theo từng lứa tuổi, nếu trẻ bị biếng ăn nên bổ sung thêm các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng. nên ăn nhiều quả chín, rau xanh.