Chỉ bị di truyền khi bệnh tiểu đường ở tuyp 1 (chiếm 5-10%trong mọi trường hợp). Còn ở tuyp 2 (chiếm 90-95% trường hợp) có thể mắc bệnhdo nhiều nguyên nhân khác như:
Trước đó nhiều người có tiền sử bệnh xơ vữa động mạch, kể cảbệnh ở tuyến tụy. Bệnh tiểu đường và xơ vữa động mạch thường hay đi đôi vớinhau. Mỗi năm số người mắc bệnh tiểu đường tăng thêm 4%, trong số đó nhữngngười trên 65 tuổi chiếm 16%.
- Di truyền: Ảnh hưởng của di truyền không phải bàn cãi. Cácbác sỹ khẳng định rằng, tiểu đường tuyp 2 thường gặp trong một gia đình vànhiều khả năng truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác hoặc thông qua sự kết hợpnhững tính năng di truyền với những yếu tố nguy cơ bên ngoài (béo phì, ít hoạtđộng thể chất).
- Những biến chứng khi mang thai: Sản phụ sinh con nặng trên4kg thì gần như chắc chắn sẽ bị tiểu đường. Trọng lượng bào thai lớn có nghĩalà trong thời kỳ mang thai người mẹ đã bị tăng lượng đường, để tránh điều nàythì tuyến tụy sản sinh quá nhiều insulin làm cho trọng lượng đứa trẻ tăng. Trẻcó thể hoàn toàn khỏe mạnh, nhưng người mẹ có nguy cơ bị tiểu đường ngay cả khixét nghiệm máu không phát hiện được.
Lượng đường trong máu có thể phát sinh bấtcứ lúc nào, thường là khi bị đói. Tốt nhất là người mẹ nên đo lượng đường saukhi ăn. Tuy nhiên, trẻ sơ sinh nhẹ cân cũng có nguy cơ bị tiểu đường bởi vì nóra đời khi sự hình thành chưa hoàn thiện nên chưa sẵn sàng cho hoạt động củatuyến tụy.
Ngược lại, thừa cân là nguyên nhân, còn bệnh tiểu đường gầnnhư luôn là hậu quả của chứng béo phì. Có đến 2/3 số người béo phì không tránhđược bệnh này, trước hết là những người thừa mỡ ở vùng bụng. Lượng mỡ ở bêntrong và bên ngoài vùng bụng làm sản sinh ra hormone kích hoạt sự phát triểncủa bệnh tiểu đường tuyp 2.
Nguy cơ mắc bệnh không phải do tính chất của đồ ăn mà dothừa cân chiếm 50% số bệnh nhân. Tình trạng thừa chất béo còn nguy hiểm hơnnhiều.
Điều đáng lo ngại không phải là bản thân bệnh tiểu đường màlà những biến chứng của nó, trong số đó nguy hiểm nhất là các bệnh về tim-mạch.
Chế độ ăn uống của người bệnh tiểu đường nên tính toán saocho có đủ các chất dinh dưỡng (chất đạm, chất béo và quan trọng hơn là cáccarbonhydrat- đường). Vẫn phải bổ sung lượng đường thích hợp trong máu để tránhnhững tình huống cấp tính (hạ đường huyết) hoặc lượng đường trong máu cao (tăngđường huyết).
Nên hạn chế chất béo động vật. Ngược lại chế độ ăn cócarbonhydrat (đường) vẫn luôn phải có và đa dạng, nên thay đổi món ăn từngngày. Carbonhydrat phải được cung cấp cho cơ thể 5- 6 lần/ngày. Người khỏe mạnhsẽ biến nó thành năng lượng, còn bệnh nhân tiểu đường phải có sự hỗ trợ củaThu*c.
Trong cả hai trường hợp thì bổ sung lượng đường ở dạng tự nhiên (ngũcốc, bánh mỳ, khoai tây, mì ống) vẫn tốt hơn là bổ sung nhanh (đường và các sảnphẩm đường) và nên ăn các loại rau quả có chất xơ nhưng hạn chế quả ngọt.
Những loại này đúng là có lợi nhưng không nên lạm dụng. Tuynhiên, kiều mạch cũng làm tăng lượng đường glucoza trong máu cũng như bất cứmột loại ngũ cốc nào. Với táo và các loại quả khác thì hàm lượng đường phụthuộc vào kích thước và độ chín hơn là vào màu sắc của quả.
Thực tế là không cần. Các chất thay thế đường đôi khi là sựcân bằng vô hại, song đã có những số liệu khoa học về tác dụng phụ của chúngđối với các cơ quan bên trong cơ thể.
Thực tế thì không nên lạm dụng insulin trong mọi trường hợp,nhưng cũng không cần phải e ngại nó. Không một loại Thu*c nào chữa khỏi hoàntoàn được bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, khi chối bỏ insulin thì phải có chỉ địnhcủa bác sỹ. Insulin có tác dụng lớn đối với nhiều bệnh nhân và cần thiết đốivới sự sống, vì cơ thể không thể tự tạo ra chất này để bù đắp.