Bệnh ôn dịch theo Đông y phần nhiều do chính khí bị khuy tổn, hoặc làm lụng vất vả quá độ, hoặc ăn uống lúc đói quá lúc no quá… nên tà khí có thể nhiễm vào qua mũi, miệng.
thời tiết thay đổi thất thường khiến bị cảm nhiễm mà sinh bệnh, đông y gọi bệnh ôn dịch.
khi mới mắc, người bệnh thấy gai rét rồi sau mới phát sốt, sốt nóng sốt rét, dần dần chỉ sốt nóng mà không gai rét, đầu nhức, mình đau, mạch sác. nếu để lâu không chữa, độc tà truyền vào tâm bào, khiến cho trong tâm nóng nảy và bức bách, tinh thần mê man. cũng có khi tà nhiệt hãm ở hạ tiêu, khí đạo không thông làm bí tiểu tiện; bụng trướng và đầy, sốt nhiều về đêm. người bệnh rêu lưỡi trắng rộp như bông, dần dần chuyển sắc vàng, vùng thượng vị đầy và đau, khát nước, phiền táo, là độc tà đã truyền vào tới vị. nhiệt tà hun đúc ở bên trong, huyết bị nhiệt hun, lưu ở kinh lạc thành huyết tím, sang trường, vị có thể gây đại tiện phân đen. do tiểu tiện không lợi, tà khí bị uất tắc, kinh khí ngừng trệ gây hoàng đản (vàng da). nếu tà khí lưu ở huyết phận sẽ phát ban.
Bệnh ôn dịch khi mới phát: người bệnh ban đầu thấy gai rét rồi phát sốt, sau chỉ sốt cao mà không rét; đầu nhức, mình đau, mạch sác… dùng bài “ngân kiều tán” gồm: liên kiều 30g, cát cánh 18g, trúc diệp 12g, kinh giới 12g, ngưu bàng 18g, ngân hoa 30g, bạc hà 18g, cam thảo 15g, đậu sị 15g. các vị tán bột, mỗi lần dùng 20g, lấy lô căn làm thang, đun thấy mùi thơm bốc lên thì uống. bệnh nặng cách 2 tiếng uống 1 lần, ngày 3 lần, đêm 1 lần. bệnh nhẹ cách 3 tiếng uống 1 lần, ngày 2 lần, đêm 1 lần. nếu chưa khỏi, đun thêm một liều nữa cho uống.
liên kiều là vị Thuốc trong bài “ngân kiều tán” trị bệnh ôn dịch khi mới mắc.
bệnh ôn dịch khi nhiệt tà truyền vào tâm bào: người bệnh trong lòng nóng nảy và bức bách. dùng bài “an cung ngưu hoàng hoàn” hoặc “tử tuyết đan” hay “chí bảo đơn”.
bệnh ôn dịch khi nhiệt tà hãm ở hạ tiêu, khiến cho khí đạo không hành, tiểu tiện khó, về đêm sốt nhiều… dùng bài “ngân kiều đạo xích tán”: ngân hoa 12g, liên kiều 12g, mộc thông 6g, tiên trúc diệp 12g, sinh địa 12g, cam thảo 4g. các vị đun với 3 bát nước, cạn còn 1 bát, bỏ bã, uống một lần.
người bệnh sốt đã 2 - 3 ngày, rêu lưỡi trắng như bông, dùng bài “đạt nguyên ẩm”: hoàng cầm 6g, bạch thược 4g, thảo quả 4g, binh lang 8g, sinh khương 7 lát, cam thảo 4g, hậu phác 4g, tri mẫu 8g, đại táo 1 quả. các vị đun với 2 bát nước, cạn còn 2/3, bỏ bã, uống một lần vào khoảng 13 – 14 giờ.
Khi rêu lưỡi người bệnh từ màu trắng chuyển sang vàng, hung cách đầy đau, khát nhiều và phiền táo... đó là độc tà truyền vào Vị. Dùng bài “Đạt nguyên ẩm”: Gia đại hoàng 8g, khương hoạt 4g, sài hồ 4g, cát căn 6g. Sắc uống như bài trên.
Hoàng cầm là vị Thuốc trong bài “Đạt nguyên ẩm” trị bệnh ôn dịch.
nếu người bệnh sốt về chiều, phiền táo, rêu lưỡi sắc đen hoặc nổi lên như gai mít, đó là nhiệt tà quá nặng, vị dịch sắp khô kiệt. lập tức dùng phép hạ, cho uống “đại thừa khí thang”: đại hoàng 12g, hậu phác 15g, chỉ thực 12g, mang tiêu 12g. sắc uống.
Nếu người bệnh xuất hiện vàng da (hoàng đản), dùng bài “Nhân trần cao thang”: Nhân trần cao 18g, chi tử 9g, đại hoàng 6g. Sắc uống.
Nhiệt tà nếu lưu lại ở huyết phận gây phát ban, dùng bài “Hóa ban thang”: Thạch cao 30g, cam thảo 10g, thủy ngưu giác 8g, tri mẫu 12g, huyền sâm 10g, ngạnh mễ 10g. Sắc uống.