Chẩn đoán và điều trị ký sinh đơn bào và giun sán hôm nay

Bệnh giun đũa: chẩn đoán và điều trị

Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Giai đoạn bệnh phổi: ho thoảng qua, khó thở, thở rít, nổi mẩn ngoài da, tăng bạch cầu ái toan và thâm nhiễm phổi thoảng qua.

Giai đoạn bệnh ở ruột: cảm giác khó chịu không rõ ràng ở thượng vị; đôi khi nôn, trướng bụng.

Trứng giun trong phân, giun chui ra hậu môn, mũi, hoặc miệng.

Nhận định chung

Ascaris lumbricoides là loại ký sinh trùng đường ruột phổ biến nhất; ước tính trên thế giới có khoảng 1 tỷ người nhiễm giun đũa. Bệnh phân bố toàn cầu, với tần suất nhiễm cao ở những nơi điều kiện vệ sinh còn kém (bao gồm cả một số địa phương Đông Nam Hoa Kỳ) hoặc ở những nơi phân người được sử dụng để bón cho cấy trồng. Nhiễm giun đũa chỉ xảy ra ở người, xuất hiện ở tất cả các nhóm tuổi. Tuy nhiên, nhiễm giun nặng thường chỉ thấy ở trẻ em, có thể làm giảm hấp thu chất đạm, chất béo, và D. xylose và giảm hoạt tính của lactat niêm mạc, dẫn đến chậm lớn.

Giun trưởng thành sống ở đoạn trên của ruột. Sau khi thụ tinh, giun cái sản sinh ra một lượng trứng lớn thải ra theo phân. Sự lây truyền không xảy ra trực tiếp từ người sang người, do trứng phải lưu lại trong đất trong 2 - 3 tuần mới có khả năng gây bệnh. Sau đó, trứng có thể tồn tại nhiều năm. Sự lây nhiễm xảy ra khi nuốt phải các trứng đã phát triển trong thức ăn và nước uống nhiễm phân. Trứng nở trong ruột non, giải phóng ra các ấu trùng chuyển động, xâm nhập thành ruột non và di chuyển tới tim phải qua các tiểu tĩnh mạch mạc treo và mạch bạch huyết mạc treo.

Từ tim, các ấu trùng đi vào phổi, chui qua thành phế nang, và di trú ngược theo hệ thống phế quản lên họng, xuống thực quản và vào lại ruột non. Trứng bắt đầu được sản sinh sau 60 - 75 ngày kể từ khi ăn phải trứng gây bệnh. Giun trưởng thành (20 - 40 cm x 3 - 6 mm) sống được 1 năm hoặc lâu hơn.

Triệu chứng và dấu hiệu

Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức. Nổi mẩn ngoài da và ran trong phổi có thể xuất hiện. Đôi khi, ấu trùng di trú lạc vào não, thận, mắt, tủy sống, ... và có thể gây các triệu chứng liên quan đến các cơ quan này.

Số lượng nhỏ giun trưởng thành trong ruột thường không gây triệu chứng. Khi nhiễm giun nặng, các triệu chứng kiểu loét dạ dày - tá tràng hoặc cảm giác khó chịu ở bụng trước hoặc sau bữa ăn có thể xuất hiện. Giun trưởng thành cũng có thể di trú khi nhiễm bệnh nặng; có thể được khạc ra, nôn ra, hoặc chui ra từ mũi hay hậu môn. Giun còn có thể chui vào ống mật chủ, ống tụy, ruột thừa, túi thừa của ruột và các chỗ khác, gây viêm đường mật, viêm túi mật, áp xe gan do vi khuẩn, viêm tụy, hoặc hoàng đảm tắc mật. Trong các trường hợp nhiễm giun rất nặng, các búi giun có thể gây tắc ruột, xoắn ruột, lồng ruột, hoặc Tu vong. Trong thương hàn, giun có thể xuyên thủng thành ruột bị mong. Một số ít các trường hợp áp xe phổi hoặc tắc thanh quản gây nghẹt thở đã được thông báo. Nhiễm số giun vừa phải đến rất lớn gây ra hiện tượng chậm lớn ở trẻ em. Điều trị trẻ em định kỳ bằng albendazol chữa các bệnh nhiễm giun đường ruột có tác dụng cải thiện dinh dưỡng cho trẻ.

Chẩn đoán hình ảnh

Trong thời kỳ di trú của ấu trùng, chụp X quang lồng ngực có thể thấy các tổn thương xâm nhiễm lan tỏa, không đối xứng, không rõ nét (hội chứng Loffler). Nhiễm giun ở ruột đôi khi được xác định tình cờ, khi chụp X quang bụng (có hoặc không có barium) thấy có giun. Chẩn đoán giun trong đường mật có thể thực hiện qua chụp đường mật và tụy nội soi ngược dòng - một phương pháp có khả năng đẩy giun ra khỏi đường mật, và qua siêu âm. Trong tắc ruột, chụp bụng không chuẩn bị cho thấy các mức hơi và những hình của giun trong các quai ruột giãn; siêu âm cũng có thể cho thấy hình ảnh ruột giãn và khối giun.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

Trong giai đoạn nhiễm giun ở phổi, số bạch cầu ái toan có thể lên đến 30 - 50% và duy trì ở mức cao trong khoảng một tháng; ấu trùng giun đôi khi tìm thấy trong đờm. Trong giai đoạn nhiễm giun ở ruột, chẩn đoán thường dựa trên việc tìm thấy các trứng đặc trưng trong phân. Đôi khi, giun trưởng thành tự chui ra ngoài qua trực tràng hoặc miệng, chỉ điểm cho tình trạng nhiễm giun tiềm tàng. Các xét nghiệm huyết thanh học không có tác dụng, bạch cầu ái toan trong máu không tăng.

Chẩn đoán phân biệt

Nhiễm giun đũa ở phổi có tăng bạch cầu ái toan cần được phân biệt với các căn nguyên ngoài giun sán (hen, hội chứng Loffler, viêm phổi tăng bạch cầu ái toan, nhiễm nấm aspergillus phế quản - phổi dị ứng) và do giun sán (bệnh phổi tăng bạch cầu ái toan nhiệt đới, nhiễm giun toxocara, giun lươn, giun móc, sán lá phổi). Viêm tụy, viêm ruột thừa, viêm túi thừa do giun đũa cần được phân biệt với viêm các bộ phận này do các căn nguyên khác. Tình trạng đầy bụng sau khi ăn cần được phân biệt với loét tá tràng, thoát vị dạ dày, bệnh túi mật hoặc tụy.

Điều trị

Albendazol và pyrantel pamoat là các Thu*c điều trị lựa chọn. Không một Thu*c nào trong các Thu*c dưới đây cẩn phải tẩy ruột trước và sau điều trị. Cần xét nghiệm lại phân sau hai tuần và điều trị lại bệnh nhân cho đến khi hết giun. Nhiễm giun đũa, giun móc, và giun tóc, thường đi kèm với nhau, có thể điều trị đồng thời bằng albendazol, mebendazol, hoặc oxantel - pyrantel pamoat.

Điều trị các Thu*c tẩy giun có thể làm giun di chuyển trước khi ch*t.

Do các Thu*c gây mê có thể kích thích giun tăng vận động, bệnh nhân nhiễm giun, cần được tẩy giun trước khi làm phẫu thuật theo hẹn. Phụ nữ mang thai cần được tẩy giun sau tam kỳ đầu.

Không nên điều trị Thu*c trong giai đoạn di trú của ấu trùng. Trong tắc ruột do giun hoặc giun chui ống mật, có thể tránh phẫu thuật bằng cách hút dịch dạ dày qua ống thông mũi, sau đó bom liều Thu*c tẩy giun qua ống. Trong giun chui ống mật, lấy giun qua ống nội soi dưới siêu âm thường có hiệu quả; điều trị dung dịch albendazol hoặc piperazin bơm vào ống mật chủ tiếp nối bằng điều trị toàn thân cũng có tác dụng.

Albendazol

Trong nhiễm giun nhẹ, một liều duy nhất albendazol (400 mg) có tỷ lệ chữa khỏi trên 95%; tuy nhiên khi nhiễm bệnh nặng, cần chỉ định liệu trình điều trị 2 - 3 ngày. Các tác dụng phụ ít xảy ra, kể cả giun chui lên mũi hoặc lên miệng Albendazol có ở Hoa Kỳ, mặc dù chỉ định dùng cho tẩy giun không được thông qua. Không được dùng Thu*c cho phụ nữ mang thai.

Pyrantel pamoat

Pyrantel pamoat liều uống duy nhất 10 mg gốc/kg (nhiều tối đa 1 g) có tỷ lệ chứa khỏi 85 - 100%. Thu*c có thể uống trước hoặc sau bữa ăn. Các tác dụng phụ nhẹ vầ ít gặp bao gồm nôn, ỉa chảy, đau đầu, chóng mặt, và buồn ngủ.

Mebendazol

Mebendazol rất có tác dụng khi cho ở liều 100 mg hai lần/ngày trước hoặc sau bữa ăn, trong 3 ngày. Các tác dụng phụ ở đường tiêu hóa ít gặp. Không dùng Thu*c cho phụ nữ có thai.

Piperazin

Liều piperazin (muối hexahydrat) là 75 mg/kg cân nặng (cao nhất 3,5 g) trong 2 ngày liên tiếp, uống trước hoặc sau bữa ăn sáng. Trong trường hợp nhiễm giun nặng cần điều trị liên tiếp trong 4 ngày hoặc liệu trình 2 ngày phải được nhắc lại sau 1 tuần. Các triệu chứng tiêu hóa và đau đầu đôi khi xuất hiện; các triệu chứng thần kinh trung ương (thất điều tạm thời và tái phát các cơn giật) hiếm gặp. Các triệu chứng dị ứng đã được thông báo khi sử dụng piperazin. Không nên dùng Thu*c cho bệnh nhân suy gan hoặc suy thận; hoặc những bệnh nhân có tiền sử co giật, hoặc bệnh thần kinh mạn tính.

Levamisol

Levamisol có ở Hoa Kỳ, nhưng không được thông qua cho chỉ định tẩy giun, rất có hiệu quả ở liều uống duy nhất 150 mg. Các tác dụng phụ nhẹ và thoảng qua đôi khi xảy ra là buồn nôn, nôn, đau bụng, đau đầu và chóng mặt.

Tiên lượng

Do giun trưởng thành có thể di trú lạc chỗ và gây ra các biến chứng tất cả các trường hợp nhiễm giun cần được điều trị và loại trừ.

Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/chandoankysinhgiunsan/benh-giun-dua-chan-doan-va-dieu-tri/)

Tin cùng nội dung

  • Chăm sóc giảm nhẹ đối với bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn bao gồm liệu pháp dinh dưỡng (xem phần Điều trị triệu chứng) và/hoặc điều trị bằng Thu*c
  • Mọi người đều cần có một chế độ ăn uống khoa học và thường xuyên tập thể dục để có sức khỏe tốt và ngăn ngừa bệnh tật. Bệnh nhân ung thư có những nhu cầu sức khỏe đặc biệt, bởi vì họ phải đối mặt với những nguy cơ liên quan đến tác dụng phụ muộn cũng như sự tái phát của căn bệnh này
  • Nếu bạn hoặc một thành viên gia đình đã được chẩn đoán bệnh sa sút trí tuệ, điều quan trọng là bắt đầu lập kế hoạch cho tương lai. Hãy bàn bạc các vấn đề dưới đây với gia đình.
  • Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Chẩn đoán tiền sản là một số xét nghiệm giúp cho bác sĩ biết trước khi sinh thai của bạn có bị một số bệnh lý hay không (thường gặp là hội chứng Down). Chẩn đoán tiền sản gồm chọc ối và sinh thiết gai nhau giúp phát hiện ra những rối loạn di truyền trước sinh.
  • Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY