Khái niệm biếng ăn được quy ước là khi trẻ không chịu ăn đủ số lượng thức ăn cần thiết. Biếng ăn thường là biểu hiện của nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do bệnh lý hay tâm lý.
Khái niệm biếng ăn được quy
ước là khi trẻ không chịu ăn đủ số lượng thức ăn cần thiết. Biếng ăn thường là
biểu hiện của nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do bệnh lý hay tâm lý.
Biếng ăn, ăn ít, gây ra thiếu
nhiều chất
dinh dưỡng quan trọng như đạm, dầu mỡ, vitamin, các yếu tố vi
lượng... Thiếu các chất này càng làm cho trẻ biếng ăn hơn, suy
dinh dưỡng nặng
hơn. Trẻ suy
dinh dưỡng lại dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn và bé lại càng biếng ăn
hơn sau các đợt bệnh đó.
Nguyên nhân gây biếng ăn ở
trẻ
Tình trạng nhiễm khuẩn (dẫn
tới ức chế các enzym tiêu hóa) hay gặp trong viêm đường hô hấp, viêm tai giữa.
Do đau trong viêm loét tại
chỗ niêm mạc lưỡi, miệng, họng.
Do thiếu các enzym tiêu hóa
(trong trường hợp thiếu các vitamin hay các yếu tố vi lượng cấu thành các
enzym) hay gặp là thiếu vitamin B1, Fe, kẽm...
Do tâm lý trong những trường
hợp không khí ăn quá căng thẳng, bị o ép quá thô bạo. Hoặc khi thời gian ăn kéo
dài hay trẻ chỉ được ăn rất ít loại thức ăn.
Hậu quả quan trọng của biếng
ăn không chỉ là tình trạng suy
dinh dưỡng trẻ em ngày càng nặng và kéo dài mà
còn đồng thời ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý trẻ do bị la mắng nhiều và tâm lý
cha mẹ do lo lắng. Đặc biệt, những trường hợp mẹ đang nuôi con bú nếu lo lắng
sẽ ảnh hưởng xấu trực tiếp đến số lượng và chất lượng sữa.
Tổ chức Y tế Thế giới ước
tính có khoảng 5% trẻ sinh ra đã lười bú, nhưng đến khi 2-3 tuổi, có đến 30-40%
trẻ biếng ăn. Điều này chứng tỏ nguyên nhân phần nhiều do môi trường sống của
trẻ gây ra.
Những biểu hiện của trẻ biếng
ăn
Trẻ biếng ăn thường hay kèm
nôn trớ, táo bón, hay quấy khóc.
Cân nặng, chiều cao thấp so
với trung bình chuẩn lứa tuổi.
Điều trị trẻ biếng ăn
Nguyên tắc điều trị: Quá
trình điều trị đòi hỏi rất tinh tế và kiên trì. Không nên tạo ra ngay một sự
thay đổi quá lớn với chế độ ăn hiện tại mà nên áp dụng dần dần cho đến khi
lượng ăn đạt được yêu cầu. Trong trường hợp có bệnh lý kèm theo, không nên uống
quá nhiều loại Thu*c để điều trị triệu chứng lâm sàng. Bước đầu chỉ nên có một
sự can thiệp nhỏ, áp dụng các tiến trình chăm sóc và nuôi dưỡng tại nhà theo
đúng chỉ dẫn của bác sĩ
dinh dưỡng.
Chế độ ăn điều trị trẻ biếng
ăn chậm lớn
Trẻ nhỏ còn bú mẹ: cho trẻ bú
nhiều lần hơn nếu thời gian mỗi lần bú ít hơn bình thường. Nếu trẻ không ngậm
bú được, người mẹ cần vắt sữa vào cốc rồi dùng thìa cho trẻ uống.
Đối với trẻ lớn hơn, đã ăn bổ
sung:
Nên cho ăn các loại thức ăn
mềm, đa dạng, dễ tiêu hóa và chia thành nhiều bữa nhỏ.
Cần thay đổi thức ăn và cho
trẻ ăn những loại thức ăn trẻ tỏ ra thích hơn để khuyến khích trẻ ăn được
nhiều, kích thích sự thèm ăn.
Cần chú trọng bồi dưỡng bằng
các loại thức ăn giàu
dinh dưỡng giúp trẻ nhanh bắt kịp tăng trưởng: Các loại
thực phẩm giàu chất đạm: sữa mẹ, sữa bột công thức, trứng, thịt, cá. Ngoài ra,
cần chú ý cho trẻ uống nhiều nước, nước hoa quả tươi và ăn thêm hoa quả để cung
cấp đủ các vitamin và yếu tố vi lượng cho trẻ.
TS. Phan Bích Nga (Viện Dinh
dưỡng)
Những sai lầm thường gặp của các bà mẹ trong chế độ ăn của trẻ biếng
ăn
Sử dụng các thực phẩm không
nên dùng là: những thực phẩm nguyên hạt, khó tiêu (như ngô..), nghèo năng lượng
mà chiếm dung lượng lớn như miến, khoai... Có điều kiện cho trẻ ăn đủ đạm động
vật như trứng, thịt, tôm, cua, cá nhưng vẫn trộn thêm đậu xanh...
Không tăng cường số bữa ăn
cho trẻ mặc dù mỗi bữa trẻ chỉ ăn rất ít hoặc bỏ ăn. Nấu loãng hơn bình thường
(cho ít chất đạm, dầu mỡ hơn bình thường) khiến cho trẻ đã ăn ít hơn về lượng
lại càng bị thiệt thòi về chất.
Không cho hoặc cho quá ít dầu
mỡ vào bát bột, cháo của trẻ gây thiếu năng lượng khẩu phần cho trẻ.
Không cho trẻ ăn cá, tôm, cua
vì sợ trẻ tiêu chảy hoặc khi trẻ có nhiễm khuẩn ho hay tiêu chảy: Chỉ trong
những trường hợp cá, tôm, cua là nguyên nhân gây tiêu chảy như một biểu hiện
của bệnh dị ứng ở một số cơ địa dị ứng đồ tanh (tỷ lệ rất thấp).
|