ThS.BS Lê Hồng Tuấn: Phần lớn bệnh do các nguyên nhân không nguy hiểm ( hơn 90% cáctrường hợp), dù vậy có thể là triệu chứng nguy hiểm của bệnh lý hệ thần kinh như chảy máutrong não, viêm màng não, u não…
Việc nhận biết triệu chứng nguy hiểm cần phải khám và điều trị tức thời nhằm hạn chếnhững biến chứng nặng của bệnh, cũng như bình tĩnh trước một cơn không nguy hiểm là rất hữuích.
Việc nhận diện những triệu chứng đau đầu nguy hiểm và đau đầu không nguy hiểm dựa trêncác yếu tố nào, thưa BS?Giới chuyên môn thường dựa vào nguyên nhân gây đau đầu. Có rất nhiều nguyên nhân, tuy nhiên,người ta chia thành hai nhóm: cấp tính và mạn tính.
Đau đầu cấp tính: xuất hiện đột ngột, không có dấu hiệu cảnh báo trước, phần lớn là do cácnguyên nhân tổn thương thần kinh thực thể hoặc các cơ quan lân cận như mắt.
Đau đầu mạn tính: triệu chứng kéo dài, hoặc lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Đau đầu kéo dài donhiều nguyên nhân, không chỉ gặp trong các bệnh có tổn thương thần kinh mà còn gặp trong cả cácbệnh vùng hàm mặt, nội khoa toàn thân.
Bệnh Horton: còn gọi là bệnh viêm động mạch thái dương, bệnh thường gặp ở người trên 50 tuổi,phụ nữ mắc bệnh nhiều hơn nam giới với tỷ lệ nữ/nam = 3/1. Biểu hiện đau dữ dội vùng thái dương mộthoặc hai bên. Động mạch thái dương nổi trên da, sờ cảm giác cứng nhưng không có mạch đập dưới tay,có thể kèm theo hoại tử da vùng đầu, lưỡi, mắt nhìn mờ hay thậm chí bị mù do huyết khối gây tắcđộng mạch trung tâmvõng mạc.
Chảy máu não và màng não: triệu chứng đau đầu thường khởi phát đột ngột, cường độ đau dữ dội,kèm nôn ói, có thể rối loạn ý thức kèm theo dấu hiệu màng não hoặc dấu hiệu thần kinh định vị.
Cầnphải nghĩ đến bệnh lý này nếu bệnh nhân từng mắc bệnh tăng huyết áp hoặc sau T*i n*n có sang chấnvùng đầu. Đau đầu do chảy máu trong não - màng não thường kèm theo yếu nửa người, rối loạn cảmgiác, nói ngọng hoặc diễn đạt suy nghĩ khó khăn hơn. Chẩn đoán dựa vào chụp cắt lớp sọ não.
Áp-xe não: thường đi kèm tình trạng nhiễm trùng như sốt cao, môi khô, lưỡi dơ. Trongtrường hợp nặng có thể kèm theo hôn mê, co giật hoặc triệu chứng thần kinh khu trú như yếu liệt taychân.
Cơn tăng huyết áp: Tăng huyết áp gây dữ dội, do vậy cần kiểm tra huyết áp cho tất cảbệnh nhân.
Glaucom: bệnh còn có tên thiên đầu thống, biểu hiện là cơn rất dữ dội, nhức mắt, nhìnmờ, mắt đỏ nhưng không có ghèn.
Đau đầu Migrain: là chứng đau nửa đầu dữ dội, thường gặp ở nữ, thường xảy ra từng cơn. Bệnhthường khởi phát do căng thẳng, lo lắng, đi ngoài nắng nhiều, ở nữ còn liên quan đến chu kỳ kinhnguyệt; uống nhiều chất kích thích như cà phê, trà đậm cũng có thể khởi phát cơn đau.
Triệu chứngđau đầu khởi phát một bên, đau theo mạch đập, bệnh nhân có cảm giác động mạch thái dương đập mạnh,cường độ đau từ thấp tăng dần đến đau dữ dội; trong cơn đau bệnh nhân sợ ánh sáng, tiếng ồn, buồnnôn và nôn. Bệnh nhân thường chọn nơi yên tĩnh và không có ánh sáng để nằm.
Đau đầu từng cụm: là loại nguyên phát có cường độ rất dữ dội, bệnh có tính chất chu kỳlặp đi lặp lại, thường gặp ở nam giới trẻ hoặc trung niên. Cơn thường xảy ra đúng giờ, bệnhnhân đang ngủ thì bị đánh thức bởi cơn đau. Vị trí đau thường sau hốc mắt, trán gần thái dương,trong cơn đau có sung huyết kết mạc, vã mồ hôi mặt cùng bên đau. Bệnh nhân có thể muốn đập đầu vàotường để giảm đau.
Đau đầu căng cơ: hay còn được gọi là căng thẳng. Đây là loại phổ biến nhất,rất thường gặp ở người làm việc với tư thế đầu cố định, như nhân viên văn phòng, người làm việc vớimáy vi tính… Bệnh nhân căng cơ có cảm giác siết chặt, nặng hai bên vai, lan dọc hai bênvai. Bệnh có liên quan tâm lý và tư thế của đầu, sự co thắt các cơ vùng đầu - cổ.
Cảm giác đầu bịbó chặt, đau không theo mạch đập như Migrain. Đau đầu căng cơ có thể kéo dài vài giờ rồi tựkhỏi nếu chúng ta thư giãn, nghỉ ngơi. Cường độ đau không dữ dội, đa phần bệnh nhân vẫn chịu đựngđược, vẫn làm việc bình thường.
Đau đầu do các cơ quan kế cận: như bệnh lý về mắt, răng hàm mặt, tai mũi họng, đặc biệt haygặp trong viêm xoang cấp.
Đau đầu nguồn gốc tâm thần: chiếm 50% trường hợp. Kiểu đau đa dạng, cảm giác đầu trống rỗng.Nguyên nhân: trạng thái lo âu ám ảnh, nghi bệnh, rối loạn phân ly, hội chứng trầm cảm….
Hiện chúng ta có những xét nghiệm hay phương pháp nào để đánh giá mức độ đaunày?Với sự tiến bộ của y học, hiện nay các cơn sẽ được "khu trú" và "định vị" bằng cácphương pháp như:
Xét nghiệm máu: tổng phân tích tế bào máu, tốc độ lắng máu, các xét nghiệm đánh giá tình trạngviêm nhiễm. Các xét nghiệm sinh hóa cơ bản điện não đồ thường được chỉ định cho các khu trúhoặc nghi ngờ động kinh.
Đo nhãn áp tìm bệnh lý tăng nhãn áp (Glaucom góc đóng, góc mở). Được chỉ định khi nghi ngờ đauđầu có liên quan bệnh lý mắt.
Chụp CT sọ não: được chỉ định trong trường hợp nghi ngờ do khối choán chỗ như chảy máutrong não, tụ máu dưới màng cứng,u não…
Đó là những cơn xảy ra đột ngột sau khi bệnh nhân gắng sức, căng thẳng, tức giận; cầnphải nghĩ đến: xuất huyết não, xuất huyết màng não. Hoặc, đó là những cơn mới xuất hiện lầnđầu, cường độ đau dữ dội hay những cơn kèm theo yếu liệt nửa người, tê bì nửa người, nônvọt: tai biến mạch máu não, u não, xuất huyết não - màng não.
Nếu những cơn ngày càng tăng, cần nghĩ đến khối choán chỗ trong não như: u não, tụ máumàng cứng mạn tính. Cũng cần cảnh giác với những cơn kèm theo sốt vì thường do viêm màngnão, viêm não; hoặc kèm theo co giật, có thể do u não.
Cần nghỉ ngơi, nằm trong phòng yên lặng, tránh tiếng ồn, kiểm tra huyết áp là việc làm thườngquy cho tất cả bệnh nhân đau đầu. Việc tiếp theo cần loại trừ những triệu chứng nguy hiểmnhư đã trình bày ở trên, nếu nghi ngờ, nên đưa bệnh nhân đến BS thần kinh để thăm khám.
Chỉ cho Thu*c giảm đau khi định hướng được nguyên nhân, trường hợp thật cần thiết nên dùng giảmđau thông thường như Paracetamol.
Việc lạm dụng những chất kích thích như cà phê, trà, các Thu*c dãn mạch, Thu*c nitrat, Thu*c lá,rượu là tác nhân gây khởi phát những cơn do nguyên nhân mạch máu.