thì hoạt động của khí huyết, tân dịch trong các tạng phủ đều bị suy giảm. Người xưa cho rằng: người từ 15 tuổi trở lên mà bị suy nhược gọi là hư lao; dưới 15 tuổi trở xuống bị gọi là cam tích. Bệnh cam ở tạng phủ khác nhau có chứng trạng rất khác nhau.
Trong nhóm bệnh mạn tính của trẻ em thì bệnh cam tích chiếm tỷ lệ nhiều hơn. Trẻ có biểu hiện: mặt vàng, người gầy, bụng to mà đau, đại tiện phân sền sệt, có mùi hôi tanh kèm theo có giun sán, tiểu tiện đục, thậm chí như nước vo gạo, có thể sốt từng cơn, mồ hôi trộm, mắt khô, chói ánh sáng hoặc kéo màng...
Tam lăng là vị Thu*c trong bài “Tiêu cam lý tỳ thang” trị cam tích ở trẻ em khi bệnh mới phát, phần nhiều do tích trệ.
Y học hiện đại phân loại suy làm 3 cấp: độ 1, độ 2, độ 3. Độ 1: trẻ có biểu hiện tiêu chảy cấp tính mất nước, mất chất điện giải; Độ 2: tiêu chảy lâu ngày gây suy ; Độ 3: suy lâu ngày làm người gầy, trẻ có bộ mặt nhăn nheo như người già, tinh thần mệt mỏi, ăn uống kém, tiếng khóc nhỏ bé, rêu lưỡi mỏng khô, lông tóc khô kèm các biểu hiện: da khô, loét niêm mạc, loét miệng, lắng đọng sắc tố, tử ban, phù thũng...
Các chứng trạng của độ 2 và 3 tương tự chứng bệnh cam tích của y học cổ truyền. Bệnh khó chữa, chữa mất nhiều thời gian; thậm chí có thể dẫn đến Tu vong. Suy dinh dưỡng là một trong những nguyên nhân gây thể trạng thấp còi của người Việt Nam.
Trước hết phải tiêu tích (đồ ăn bị tích trệ), sau đó phải tẩy trùng tích (giun sán). Dùng bài Thu*c:
Bài 1 - “Tiêu cam lý tỳ thang”: tam lăng 2g, thanh bì 4g, lô hội 0,2g, sử quân tử 4g, hoàng liên 4g, thần khúc 6g, nga truật 4g, trần bì 4g, binh lang 2g, cam thảo sống 4g, mạch nha 6g. Sắc 3 lần, hợp lại, chia uống 3 lần trong ngày, nên dùng nước đăng tâm thảo và đại táo làm thang.
Bài 2 - “Sử quân tử tán”: sử quân tử ngâm, ủ, bóc vỏ lụa và cắt phần đầu nhọn, sấy khô, tán bột. Ngày uống 2 - 4g, uống lúc đói. Trị cam nhiệt...
Nhục đậu khấu (nhân hạt khô của cây nhục đậu khấu) là vị Thu*c trong bài “Phì nhi hoàn” trị cam tích khi thể chất đã hư mà tích trệ chưa tiêu hết.
Bài 1 - “Sâm linh bạch truật tán”: bạch biển đậu 20g, nhân sâm 40g, bạch linh 40g, bạch truật 40g, cam thảo 40g, hoài sơn 40g, liên nhục 20g, cát cánh 20g, ý dĩ 20g, sa nhân 20g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 4 - 8g tùy theo tuổi.
Bài 2 - “Ngũ vị Dị công tán”: bạch truật 12g, đảng sâm 8g, trần bì 4g, chích thảo 4g, phục linh 8g. Sắc uống.
. Nên dùng Thu*c công lẫn bổ. Dùng bài Thu*c “Phì nhi hoàn” hoặc “Sâm linh bạch truật tán”.
Bài “Phì nhi hoàn”: nhục đậu khấu 40g, sử quân tử 80g, hồ hoàng liên 80g, lục thần khúc 80g, mạch nha 40g, binh lang 40g, mộc hương 15g. Các vị trên cùng tán nhỏ mịn, rây, trộn cho thật đều, dùng mật ong đã cô đặc luyện thành hoàn 4g. Mỗi ngày uống 1 - 2 lần, mỗi lần 1 - 2 hoàn, uống với nước đun sôi để ấm. Trẻ em dưới 3 tuổi giảm bớt liều lượng. Dùng em tỳ vị suy nhược, gầy yếu, da vàng bụng to, kém ăn, đại tiện lỏng.
Mỗi chứng cam tích có phương pháp chữa trị cụ thể. Tuy vậy, có thể dùng bài “Tập thành hoàn gia giảm” để chữa chứng cam ở các tạng phủ: lô hội 0,8g; ngũ linh chi 4g, dạ minh sa 4g, trần bì 6g, xuyên khung 8g, xuyên quy 8g, mộc hương 6g, sử quân tử 8g, nga truật 6g, hoàng liên 6g, thịt cóc 12g, thanh bì 6g. Các vị tán nhỏ, trộn với nước mật lợn làm viên. Ngày uống 4 - 6g.
Riêng chứng bệnh cam tẩu mã (nha cam - cam miệng); tỵ cam - cam ở mũi; nhĩ cam - cam ở tai (viêm tai giữa có mủ)... thường dùng Thu*c uống kết hợp bôi xát “Thu*c Cam xanh” để điều trị.
BS. Phương Thảo