Bài báo chỉ ra rằng béo phì có liên quan mật thiết đến 11 loại ung thư khác nhau bao gồm ung thư thực quản, ung thư ruột kết, ung thư trực tràng, ung thư đường mật, ung thư túi mật, ung thư tuyến tụy, ung thư vú, ung thư nội mạc tử cung, ung thư tủy xương, ung thư dạ dày và ung thư buồng trứng. Nó cũng có thể làm tăng đáng kể tỷ lệ mắc các loại ung thư này.
Trước đây, Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC, thuộc Tổ chức Y tế Thế giới - WHO) cũng đã xác nhận rằng béo phì là yếu tố nguy cơ của ung thư thực quản, ung thư ruột kết và ung thư trực tràng, ung thư vú (ở phụ nữ sau mãn kinh), ung thư thận và ung thư nội mạc tử cung.
Sự xuất hiện của ung thư có liên quan đến chức năng miễn dịch bất thường, trong khi đó chức năng miễn dịch của người béo phì là bất thường. Hầu hết những người béo phì đều bị tăng cholesterol máu và tăng insulin máu.
Tăng cholesterol sẽ làm tăng hàm lượng cholesterol trong màng tế bào đại thực bào của con người và làm giảm chức năng của đại thực bào để nuốt mầm bệnh và các vật thể lạ như vi khuẩn và virus. Đồng thời, tế bào lympho (tế bào ung thư) cũng có thể ức chế chức năng của đại thực bào do nồng độ cholesterol và insulin màng tế bào cao.
Nếu cơ thể đã có tế bào ung thư, quá nhiều insulin sẽ thúc đẩy đáng kể sự phát triển và sinh sản của tế bào ung thư này.
Ngoài ra, béo phì cũng đi kèm với viêm mãn tính và các tế bào mỡ có thể hoạt động như một chiếc ô bảo vệ khối u để thoát khỏi sự "rà soát" của hệ miễn dịch. Ngoài ra, chất béo cơ thể cao cũng có thể gây ra bệnh ung thư liên quan đến chuyển hóa bất thường của hormone giới tính, chẳng hạn như ung thư vú và ung thư nội mạc tử cung.
Từ quan điểm khoa học, có một số cách để đánh giá độ béo và gầy của một người:
1. Chỉ số khối cơ thể (BMI), hiện đang được sử dụng phổ biến trong ngành y tế để xác định hình dạng cơ thể.
Theo WHO, chỉ số khối cơ thể 18,5-24,9 là bình thường, 25-29,9 là thừa cân và trên 30 là béo phì. Nhưng cần lưu ý rằng chỉ số khối cơ thể không phản ánh sự phân phối chất béo. Một số người có chỉ số khối cơ thể bình thường, nhưng tích tụ nhiều mỡ bụng và có nguy cơ mắc các bệnh mãn tính cao.
Chỉ số khối cơ thể nên được kết hợp với chu vi vòng eo để xác định có nên giảm mỡ hay không. Vòng eo không chỉ có thể phản ánh tổng lượng mỡ mà còn phản ánh sự phân bố mỡ.
Chu vi vòng eo của đàn ông trưởng thành nên dưới 85cm, và phụ nữ nên dưới 80cm. Để đo chu vi vòng eo, bạn hãy đứng hai chân cách nhau khoảng 30cm và dùng thước dây để đo, đừng cố siết chặt dây hoặc hóp bụng khi đo.
Khi đo, đứng thẳng, hít vào nhẹ nhàng và đo chu vi vòng eo phía trên rốn và chu vi vòng hông nhô ra nhất bằng thước dây.Tỷ lệ giữa eo và hông lớn hơn 0,9 đối với nam và 0,8 đối với nữ cho thấy nhóm có nguy cơ cao bị thừa mỡ nội tạng.
Độ dày của mỡ dưới da trên thành bụng nên nhỏ hơn 15mm đối với nam và 20mm đối với nữ. Điều này thường đòi hỏi bạn phải đến gặp bác sĩ để có máy đo chuyên dụng.
Khi bạn giảm cân, bạn có thể thay thế một số thực phẩm tinh bột bằng các thực phẩm chứa hàm lượng vitamin, khoáng chất và chất xơ cao, chứa ít tinh bột.
- Chế độ ăn kiêng protein cao: Tăng tỷ lệ protein trong chế độ ăn lên hơn 20%, ăn nhiều thịt nạc, trứng, thịt gia cầm, cá... Những người béo phì thông thường thường được khuyên nên chọn chế độ ăn giàu protein.
- Chế độ ăn uống cân bằng hạn chế năng lượng: Đảm bảo chế độ ăn uống cân bằng, hãy giảm lượng tiêu thụ của từng chất dinh dưỡng. Bệnh nhân mắc bệnh thận nên sử dụng chế độ ăn cân bằng năng lượng hạn chế.
- Chế độ nhanh nhẹ: Ăn bình thường trong 5 ngày trong một tuần và lấy 1/4 năng lượng thông thường trong 2 ngày còn lại (không liên tục) (khoảng 500kcal/ngày đối với phụ nữ và 600 kcal/ngày đối với nam giới) và duy trì trong một thời gian dài. Những người không thể chấp nhận hai chế độ ăn kiêng trên có thể sử dụng chế độ ăn kiêng nhẹ.
Tập thể dục là một trong những cách lành mạnh nhất để giảm cân. Người lớn nên tập thể dục nửa giờ mỗi ngày.
Nguồn tham khảo: WHO, IARC, QQ, Healthline
Theo Báo dân sinh
Copy link
Chủ đề liên quan:
bệnh ung thư chức năng miễn dịch nồng độ cholesterol tế bào mỡ tế bào ung thư tổ chức y tế thế giới ung thư dạ dày ung thư ruột ung thư ruột kết ung thư thực quản ung thư trực tràng ung thư tuyến tụy ung thư vú yếu tố nguy cơ