Bệnh Parkinson là một bệnh mạn tính, tiến triển, xâm phạm tới hệ ngoại tháp ở não làm mất cân bằng trong hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh dẫn đến rối loạn chức năng vận động, thường gặp ở người cao tuổi.
Bệnh Parkinson là một bệnh
mạn tính, tiến triển, xâm phạm tới hệ ngoại tháp ở não làm mất cân bằng trong
hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh dẫn đến rối loạn chức năng vận
động, thường gặp ở người cao tuổi. Biểu hiện lâm sàng chính của bệnh Parkinson
là run khi nghỉ, chậm chạp vận động, cứng đờ, tư thế khom gấp, hiện tượng uốn
sáp và mất phản xạ tư thế.
Có hai loại Parkinson nguyên
phát và hội chứng Parkinson do hậu quả của một số bệnh lý thần kinh khác hoặc
do tác dụng phụ của một số loại Thuốc an thần. Việc xác định loại bệnh
Parkinson nguyên phát hay thứ phát giúp cho điều trị đúng đạt hiệu quả cao.
Ngày nay đã có nhiều Thuốc
điều trị tương đối hiệu quả bệnh Parkinson. Tuy nhiên, để
dùng Thuốc đúng bệnh
nhân phải được thăm khám chuyên khoa thần kinh nhằm chẩn đoán bệnh thật chính
xác từ đó có chiến lược điều trị tốt.
Mục tiêu điều trị là cải
thiện các rối loạn bệnh lý làm cản trở sinh hoạt hằng ngày, giữ cho bệnh nhân
duy trì được hoạt động càng lâu càng tốt và hạn chế tối đa các biến chứng bệnh.
Người ta thấy rằng, ở bệnh
nhân Parkinson có hiện tượng thoái hóa các tế bào kiểm soát vận động sản sinh
dopamin, là một chất dẫn truyền thần kinh có vai trò quan trọng trong hệ thần
kinh trung ương. Khi chúng thoái hóa lượng dopamin sẽ giảm dần trong cơ thể
người bệnh dẫn đến các triệu chứng của bệnh Parkinson như (đi đứng khó khăn, cử
động chậm, cứng đờ và run). Vì vậy, liệu pháp điều trị bệnh Parkinson có hiệu
quả nhất là levodopa kết hợp với chất ức chế decarboxylase ngoại biên (sinemet,
madopar, atamet). Một số Thuốc khác tác động tại synape dopaminergic cũng hữu
ích, đặc biệt khi phối hợp với levodopa.
Hiện nay ở Việt Nam, levodopa
là Thuốc vẫn được coi là phương pháp điều trị như tiêu chuẩn vàng trong điều
trị bệnh Parkinson. Tuy nhiên, việc
dùng Thuốc dù đều đặn và đúng chỉ định của
bác sĩ cũng chỉ có hiệu quả trong khoảng 10 năm đầu. Sau vài năm, hiệu quả của
Thuốc sẽ kém đi và các triệu chứng trở nên khó kiểm soát. Mặt khác, Thuốc cũng
có thể gây một số tác dụng phụ như ảo giác, loạn động, buồn nôn, tụt huyết áp
tư thế, an thần và mất ngủ.
Một số Thuốc thuộc nhóm đồng
vận dopamin, tác dụng kích thích trực tiếp thụ thể dopamin nhưng hiệu quả giảm
triệu chứng không bằng levodopa như piribedil. Thuốc có tác dụng kích thích thụ
thể dopamin D2 hậu synape của thể vân, được chỉ định điều trị bệnh Parkinson
giai đoạn sớm đơn trị liệu hoặc dùng phối hợp với L-Dopa và các Thuốc khác.
Thuốc thuộc nhóm ức chế COMT:
entecarpone và tolcapone là chất ức chế men catechol o-methyl transferase
(COMT) tác dụng làm tăng tính khả dụng sinh học của L-Dopa và kéo dài thời gian
bán hủy của nó. Thuốc cho phép giảm liều levodopa, vì vậy Thuốc không có hiệu
quả nếu không có L-Dopa. Tuy nhiên, nhóm Thuốc này có biến chứng tiêu chảy, rối
loạn chức năng gan. Cần kiểm tra men gan 2 tuần/lần.
Nhóm Thuốc kháng cholinergic
đặc biệt hữu hiệu với thể bệnh run trong Parkinson. Nói chung, nhóm Thuốc này
không nên dùng cho người già, nhất là bệnh nhân bị rối loạn trí nhớ, u lành
tiền liệt tuyến, tăng nhãn áp.
Ngoài liệu pháp
dùng Thuốc,
trên thế giới đã áp dụng điều trị phẫu thuật cho bệnh nhân Parkinson. Phương
pháp này chỉ áp dụng khi điều trị nội khoa thất bại với điều kiện bệnh nhân
không có sa sút trí tuệ rõ.
TS. Hoàng Ngọc