Hội chứng cổ - vai - cánh tay là một nhóm các triệu chứng lâm sàng liên quan đến các bệnh lý cột sống cổ, thường kèm theo các rối loạn chức năng rễ, dây thần kinh cổ hoặc tủy cổ.
Hội chứng cổ - vai - cánh tay
là một nhóm các triệu chứng lâm sàng liên quan đến các bệnh lý cột sống cổ,
thường kèm theo các rối loạn chức năng rễ, dây thần kinh cổ hoặc tủy cổ. Biểu
hiện lâm sàng thường gặp là đau vùng cổ, vai và một bên tay, kèm theo một số
rối loạn cảm giác hoặc vận động tại vùng chi phối của rễ dây thần kinh cột sống
cổ bị ảnh hưởng.
Nguyên nhân gây hội chứng cổ - vai - cánh tay
Thoái hóa cột sống cổ là
nguyên nhân hay gặp nhất (chiếm 70-80%), gồm thoái hóa các khớp liên đốt và
liên mỏm bên, gây hẹp lỗ tiếp hợp, hậu quả là chèn ép rễ/dây thần kinh cột sống
cổ tại các lỗ tiếp hợp.
Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ
gặp ở 20-25% người mắc bệnh: khối nhân nhầy thoát vị sẽ chèn ép các rễ thần
kinh, chèn đẩy dây chằng dọc sau gây đau.
Ngoài ra còn có các nguyên
nhân ít gặp khác như: chấn thương, khối u, nhiễm khuẩn, loãng xương, bệnh lý
viêm cột sống, bệnh lý phần mềm cạnh cột sống. Trong một số trường hợp hội
chứng cổ - vai - cánh tay là do bản thân bệnh lý của cột sống cổ gây đau cổ và
lan ra vai hoặc tay, mà không có bệnh lý rễ dây thần kinh cổ.
Điều trị hội chứng cổ - vai -
cánh tay
Dựa trên 3 nguyên tắc
- Điều trị nguyên nhân kết
hợp với điều trị triệu chứng bệnh.
- Kết hợp điều trị Thuốc,
không dùng Thuốc với các biện pháp phục hồi chức năng.
- Chỉ định điều trị ngoại
khoa trong một số ít các trường hợp đặc biệt.
Điều trị bảo tồn
Điều trị bằng Thuốc: Thường
dùng một số loại Thuốc sau để điều trị hội chứng cổ - vai - cánh tay. Thuốc
giảm đau thông thường như acetaminophen (paracetamol, tylenol...);
acetaminophen kết hợp với codein hoặc tramadol như: efferalgan-codein;
ultracet. Thuốc kháng viêm không steroid (NSAID): diclofenac; piroxicam;
meloxicam; celecoxib; etoricoxib. Nếu có nguy cơ tiêu hóa có thể dùng thêm nhóm
ức chế bơm proton.
Thuốc giãn cơ cũng được dùng
trong trường hợp này. Thường dùng trong đợt đau cấp, ngắn ngày, đặc biệt khi có
tình trạng co cứng cơ. Một số Thuốc thường dùng: epirisone, tolperisone,
mephenesine, diazepam.
Ngoài ra, một số Thuốc khác
cũng được dùng trong hội chứng cổ - vai - cánh tay như: Thuốc giảm đau thần
kinh (gabapentin, pregabalin), Thuốc chống trầm cảm (amitriptylin đối với đau
thần kinh mạn tính hoặc có rối loạn giấc ngủ), vitamin nhóm B (B1, B6, B12)
liều cao.
Điều trị không dùng Thuốc:
Một số
phương pháp thường dùng: vật lý trị liệu, châm cứu, xoa bóp bấm huyệt
vùng cổ - vai - cánh tay, kéo giãn cột sống cổ, đeo nẹp cổ, tập vận động cổ, bả
vai, khớp vai, cánh tay, điều chỉnh chế độ sinh hoạt - làm việc.
Điều trị phẫu thuật
phương pháp này thường dùng
cho bệnh nhân bị thoát vị đĩa đệm cấp tính do chấn thương (có hoặc không có tổn
thương tủy), thoát vị đĩa đệm gây yếu bại hoặc liệt tứ chi (hội chứng chèn ép
tủy), thoát vị đĩa đệm có hội chứng giao cảm cổ sau mức độ nặng mà trên phim
chụp động mạch phát hiện gai xương chèn ép động mạch đốt sống. Ngoài ra còn có
thể sử dụng cho bệnh nhân thoát vị đĩa đệm gây đau có tính chất cố định mà điều
trị nội khoa không có kết quả, thoát vị đĩa đệm với đau quá mức mà Thuốc giảm
đau không còn tác dụng hoặc thời gian giảm đau ngắn, bệnh nhân đã có biến chứng
bệnh lý dạ dày - hành tá tràng, bệnh nhân thoát vị đĩa đệm mất vững cột sống do
thoái hóa đĩa đệm gây nên.
Không chỉ định
phương pháp
điều trị phẫu thuật cho những bệnh nhân chưa được điều trị nội khoa; những
bệnh nhân trên phim MRI đĩa đệm chỉ lồi
nhẹ, đau cổ - vai - cánh tay không do thoát vị đĩa đệm, bệnh nội khoa kết hợp
đang tiến triển như: lao, suy thận, đái tháo đường, suy tim hoặc ung thư giai
đoạn cuối, bệnh nhân có vùng cổ trước có
viêm nhiễm, đang sốt và bệnh nhân tâm thần.
BSCKI. Trung Dũng
(Khoa Phục
hồi chức năng - Bệnh viện 354)