Người ta cho rằng đây là sự kết hợp của nhiều yếu tố về tâm lý xã hội, yếu tố di truyền, yếu tố gia đình.
- Nếu trong gia đình trẻ, bố hoặc mẹ có vấn đề về rối loạn ăn uống thì trẻ có nhiều nguy cơ bị rối loạn ăn uống.
- Những trẻ tham gia vào những hoạt động thể dục thể thao có tính chất thi đấu cạnh tranh cần phải có dáng người gầy như là múa ballet, thể dục thẩm mỹ, trình diễn thời trang... thường hay để ý quá mức đến vẻ bề ngoài của mình, mặc dầu có sự khác xa giữa cách nghĩ của trẻ về hình dáng của mình và hình dáng bên ngoài của trẻ.
- Những trẻ có tiền sử bị lạm dụng về cơ thể hoặc bị lạm dụng về T*nh d*c cũng có xu hướng dễ mắc chứng rối loạn ăn uống.
- Một yếu tố thuận lợi nữa là những trẻ có lòng tự tin thấp thường dễ mắc chứng này và những trẻ này thường không cảm thấy hài lòng về cơ thể của mình.
- Người ta cũng thấy rằng những hình ảnh trên tivi cũng có ảnh hưởng quan trọng đến tỷ lệ rối loạn ăn uống. Hầu hết những hình ảnh phụ nữ trên tivi ở mục quảng cáo, phim, thời trang đều là những người rất gầy và điều này dẫn đến nhiều trẻ gái cho rằng gầy là thể hiện của cái đẹp.
- Nhiều thông tin không có tính chất khoa học ở một số trang web, báo chí về cách giảm béo khi trẻ đọc được kết hợp với nhận thức chưa đầy đủ của trẻ đã được áp dụng dẫn đến rối loạn về ăn uống.
- Nỗ lực quá mức để khống chế cân nặng (chế độ ăn kiêng quá khắt khe, nôn, sử dụng Thu*c tây, tập luyện quá mức).
- Cố gắng loại trừ thức ăn (cố gắng đẩy thức ăn ra khỏi cơ thể bằng cách tự gây nôn, dùng Thu*c nhuận tràng hoặc Thu*c lợi tiểu).
Một bệnh nhân có thể biểu hiện cả chán ăn tâm thần và chứng ăn vô độ trong những thời điểm khác nhau.
Cả chán ăn tâm thần và chứng ăn vô độ có thể gây ra các rối loạn cơ thể (mất kinh, hạ kali, co giật, loạn nhịp tim). Những rối loạn này đòi hỏi có sự giám sát hoặc điều trị.
- Sử dụng Thu*c tây và chế độ ăn kiêng quá khắt khe có thể gây ra những tổn thương trầm trọng cho cơ thể. Chứng chán ăn tâm thần có thể đe dọa tính mạng bệnh nhân.
- Chấp nhận những thói quen ăn uống bình thường sẽ tạo cho bệnh nhân cảm giác vững vàng hơn về khả năng kiểm soát thói quen ăn uống và trọng lượng của mình.
- Xây dựng mối quan hệ hợp tác và tìm hiểu sự mâu thuẫn trong tư tưởng của bệnh nhân về việc thay đổi thói quen ăn uống và sự lên cân.
- Tổng kết những mối quan tâm về công việc và về các vấn đề sức khỏe hiện tại và tương lai (ví dụ: sinh con) nảy sinh từ các vấn đề ăn uống.
- Đặt kế hoạch cho các bữa ăn trong ngày dựa trên lượng calo và chất dinh dưỡng cần thiết. Tập trung xây dựng một hình thức ăn uống bình thường và giúp đỡ bệnh nhân xây dựng những ý nghĩ thực tiễn hơn về thực phẩm.
- Thử thách những định kiến của bệnh nhân về cân nặng, hình dáng và cách ăn uống (ví dụ: cho cacbon hydrate là chất gây béo)
- Trong trường hợp bệnh nhân bị chứng ăn vô độ, xác định các tình huống trong đó có sự ăn uống quá nhiều và đặt kế hoạch rõ ràng để đối phó hiệu quả hơn với những sự kiện gây xuất hiện bệnh này.
- Cần cân nhắc tham khảo ý kiến chuyên khoa nếu các triệu chứng cơ thể nguy hiểm kéo dài sau khi đã thực hiện các biện pháp trên.
- Xung đột gia đình có thể là nguyên nhân của các rối loạn ăn uống hoặc có thể lại là hậu quả của chúng. Cần cân nhắc việc tư vấn cho gia đình, nếu có thể.
Chủ đề liên quan:
ăn uống nCoV rối loạn rối loạn ăn rối loạn ăn uống Sức khỏe toàn dân sức khỏe việt nam Viêm phổi cấp virus corona