Việc tiêm phòng vắc-xin trong thời gian qua góp phần tích cực phòng ngừa một số bệnh lưu hành tại cộng đồng. Tuy nhiên, thực tế đã xảy ra một số trường hợp sốc phản vệ, đặc biệt là ở trẻ em.
Việc
tiêm phòng vắc-xin trong
thời gian qua góp phần tích cực phòng ngừa một số bệnh lưu hành tại cộng đồng. Tuy
nhiên, thực tế đã xảy ra một số trường hợp sốc phản vệ, đặc biệt là ở trẻ em.
Vì vậy, cần quan tâm đến vấn đề này khi sử dụng các loại vắc-xin phòng bệnh.
Vắc-xin có thể được bào chế
từ vi khuẩn, virút hay độc tố của chúng hoặc được tái tổ hợp từ các kháng
nguyên đặc hiệu. Trước và sau khi tiêm vắc-xin cần phải bảo đảm các quy trình
cần thiết theo quy định.
Phản ứng tức thời đối với
vắc-xin
Sau khi tiêm vắc-xin cần phải
theo dõi chặt chẽ để chắc chắn người được tiêm vẫn khỏe mạnh và không bị phản
ứng. Thông thường phải theo dõi ít nhất 15 phút sau khi tiêm vì hầu hết các tai
biến nguy hiểm đến tính mạng xảy ra trong vòng 10 phút sau khi tiêm. Ở trẻ em,
phản ứng nguy hiểm nhất là sốc phản vệ có nguy cơ dẫn đến Tu vong nếu không
được phát hiện, can thiệp kịp thời. Biểu hiện của sốc phản vệ là cơn suy tuần
hoàn cấp với các triệu chứng chân tay lạnh, mạch nhanh, huyết áp bị tụt hoặc
kẹt; bị khó thở, co thắt thanh quản, co rút cơ thành bụng hay tiêu chảy, da
xanh. Sau khi phát hiện tình trạng sốc phản vệ, cần đặt trẻ đã tiêm vắc-xin nằm
nghiêng sang trái, tiêm ngay một mũi Thuốc adrenaline liều 0,01mg/kg trọng
lượng vào bắp thịt. Người lớn có thể tiêm từ 0,5 - 1ml. Nếu không cải thiện có
thể tiêm nhắc lại sau 10 phút, cho thở oxygen và nhanh chóng chuyển người bệnh
đến bệnh viện nơi gần nhất để hồi sinh cấp cứu và theo dõi, xử trí tiếp tục.
Ở người lớn, phản ứng thường
gặp sau khi tiêm vắc-xin là mệt mỏi. Các cơn giảm trương lực cơ ít khi xảy ra
sau khi tiêm vắc-xin, nếu có xảy ra phải sau từ 2 - 4 giờ. Đối với những trường
hợp có phản ứng nặng sau khi tiêm vắc-xin cần phải được theo dõi và xử trí tại
các bệnh viện, không được để theo dõi tại nhà.
Ngoài phản ứng tức thời, các
phản ứng phụ của vắc-xin cũng cần được thu thập, ghi nhận để báo cáo cho cơ
quan có trách nhiệm mặc dù các vắc-xin thường được thử nghiệm về tính an toàn
và hiệu lực trước khi được chỉ định sử dụng rộng rãi cũng như đã được đánh giá
trên thực địa. Do đó, việc giám sát và báo cáo các phản ứng phụ vẫn rất cần
thiết. Bất cứ một phản ứng phụ nào của vắc-xin cũng cần được ghi nhận và báo
cáo cho trung tâm Y tế dự phòng tỉnh để đơn vị này báo cáo cho những cơ quan có
liên quan trách nhiệm ở tuyến trên. Các thông tin cần thu thập là họ tên, tuổi
của đối tượng dùng vắc-xin; các trường hợp có phản ứng sốc phản vệ xảy ra trong
vòng 48 giờ; các bệnh cảnh lâm sàng của người bệnh trong vòng 30 ngày sau khi
tiêm vắc-xin như người bệnh bị viêm não do vắc-xin, bị co giật, viêm màng não
vô khuẩn, giảm tiểu cầu, liệt cấp tính, ch*t hoặc bất kỳ biến cố nào có liên
quan đến việc tiêm vắc-xin phải vào bệnh viện để điều trị.
Chú ý việc tiêm vắc-xin cho
các nhóm đối tượng có nguy cơ đặc biệt
Đối với trẻ em đã có phản ứng
mạnh với lần tiêm vắc-xin trước: cần phải hết sức thận trọng khi tiêm vắc-xin ở
những lần tiêm sau đó. Có thể các mũi
tiêm phòng vắc-xin sau phải được thực
hiện tiêm trong các bệnh viện để trẻ em được theo dõi tốt hơn và dễ dàng xử trí
kịp thời khi có phản ứng nặng xảy ra.
Đối với những đối tượng có
nguy cơ nhiễm khuẩn đặc biệt: cần chú ý những trường hợp người bệnh bị mắc các
bệnh như hen phế quản, bệnh tim hoặc phổi mãn tính; bị cắt lách, bị hội chứng
Down, nhiễm HIV, trẻ con sinh thiếu tháng... vì rất dễ có nguy cơ bị phản ứng
sau khi tiêm vắc-xin. Ở trẻ em, cần cân nhắc, xem xét và chỉ định tiêm vắc-xin
một cách thận trọng. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo không nên sử dụng
các loại vắc-xin sống như BCG, bại liệt uống, sởi cho những trẻ em bị nhiễm
HIV; những trẻ con sinh thiếu tháng nên tiêm chủng vào tháng thứ hai sau khi
sinh.
Đối với phụ nữ có thai: không
nên dùng vắc-xin sống vì theo lý thuyết các loại vắc-xin này có thể hại cho
thai nhi. Tuy vậy, trong bối cảnh tình hình người phụ nữ mang thai có nguy cơ
bị phơi nhiễm nghiêm trọng đối với bệnh sởi hoặc sốt vàng thì có thể vẫn được
tiêm phòng. Chưa có bằng chứng nào xác định về vắc-xin chống bệnh rubella có
thể gây quái thai nhưng các nhà khoa học đều khuyên rằng phụ nữ chỉ nên có thai
sau khi đã tiêm vắc-xin này được 2 tháng.
Đối với phụ nữ đang cho con
bú: không có bằng chứng nào xác định về sự nguy hiểm đối với trẻ con còn bú mẹ
khi người mẹ được tiêm vắc-xin.
Đối với trẻ con sinh thiếu
tháng: việc tiêm vắc-xin cũng thực hiện tương tự như trẻ con sinh đủ tháng vì
việc đáp ứng miễn dịch ở những trẻ con sinh thiếu tháng vẫn bảo đảm đầy đủ. Tuy
vậy, để tránh khả năng có thể lây bệnh cho người khác, việc sử dụng vắc-xin
Sabin chỉ nên dùng khi trẻ con đã được xuất viện. Một số trường hợp trẻ con
sinh thiếu tháng có đáp ứng miễn dịch với vắc-xin viêm gan B và Hib kém hơn trẻ
con sinh đủ tháng nên việc tiêm vắc-xin phòng viêm gan B cho những trẻ con sinh
thiếu tháng được thực hiện theo hai cách. Cách thứ nhất tiêm liều đầu tiên ngay
lúc mới sinh, sau đó tiêm nhắc lại sau 1 tháng, 6 tháng và 12 tháng. Cách thứ
hai là đợi cho trẻ nhỏ đến đủ 2 tháng tuổi, tiêm 3 mũi tiêm cơ bản vào lúc 2
tháng, 3 tháng và 8 tháng tuổi. Nếu trẻ con sinh ra từ người mẹ bị viêm gan B
thì chọn cách thứ nhất, đồng thời tiêm luôn cho trẻ globulin miễn dịch. Đối với
vắc-xin Hib có thể tiêm cho trẻ con sinh thiếu tháng vào lúc 2 tháng, 4 tháng,
6 tháng và 12 tháng tuổi.
TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH