Các bộ phận cơ thể của động vật có thể dùng làm Thuốc thì đã nghe nói tới nhiều, nhưng Đông y sử dụng cả sỏi của chúng để dùng như những vị Thuốc quý.
Rất nhiều loài động vật có thể cho ta sỏi để dùng như một vị Thuốc.Sỏi mật trâu bò (ngưu hoàng)
Sỏi trong mật trâu bò đã được dùng
làm Thuốc từ rất lâu đời, Đông y gọi đó là “ngưu hoàng”. Nói nôm na, vị Thuốc “ngưu hoàng” chính là sạn mật, hay sỏi mật, của những con trâu hoặc con bò mắc bệnh sỏi mật.Ngưu hoàng - sỏi mật trâu bò chỉ có ở những con trâu, con bò mắc bệnh, nên từ xưa đã là một vị Thuốc quý hiếm. Người xưa thường tìm những con trâu bò già, gầy yếu, mắt lờ đờ, khi đi đầu hay quay nghiêng, đứng hoặc nằm thường thở khò khè như bị hen, đó thường là những con vật mật thường có ngưu hoàng.Để khai thác ngưu hoàng, khi mổ trâu bò, thì nắn túi và ống mật, hễ thấy có cục rắn cứng thì cần sớm rạch túi mật ra, lọc qua rây, lấy mật riêng và ngưu hoàng riêng. Nếu để lâu, dịch mật ngấm vào ngưu hoàng sẽ làm ngưu hoàng bị đen và có phẩm chất kém. Sau khi lấy ngưu hoàng, cần dùng vải mềm hay gạc sạch gạt bỏ màng nhầy dính xung quanh, dùng thông thảo hoặc cỏ bấc đèn (đăng tâm thảo) hoặc bông bọc lại, ngoài cùng bọc một lớp vải thưa, buộc cẩn thận. Cho vào hộp kín, trong có vôi cục chưa tôi hoặc gạo rang hay silicagien để hút ẩm. Hộp phải nút kín, thì khả năng hút ẩm của vôi hay gạo rang mới thể hiện tốt. Nhất thiết không phơi nắng hay sấy lửa hoặc để ở chỗ có gió mạnh, vì sức nóng, ánh sáng mặt trời hoặc gió mạnh làm ngưu hoàng nứt vỡ, sẫm lại, phẩm chất sẽ kém. Tùy theo mức độ kết sạn, ngưu hoàng có kích thước to nhỏ không nhất định; lớn có thể bằng quả trứng gà, nhỏ thì bằng hòn cuội hoặc viên sạn. Khi cắt ngang trông thấy như gồm nhiều lớp dính chặt vào nhau, có màu vàng nâu hoặc nâu đỏ.Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, trong ngưu hoàng có axít cholic, cholesterol, ergosterol, axít béo, este phôtphoric, bilirubin, vitamin D, muối canxi, sắt, đồng... Trên cơ sở thành phần hóa học của ngưu hoàng thiên nhiên, những năm gần đây, người ta đã chế ra ngưu hoàng tổng hợp. Do đó, hiện tại ngưu hoàng có 2 loại: ngưu hoàng thiên nhiên và ngưu hoàng nhân tạo (tổng hợp). Ngưu hoàng tổng hợp được bán dưới dạng bột màu cá vàng, mùi thơm như mùi mít chín, đựng trong lọ màu.Sỏi mật trâu bò chỉ có ở những con trâu, con bò mắc bệnhTheo Đông y, ngưu hoàng có vị ngọt, tính mát; vào hai kinh tâm và can. Có tác dụng thanh tâm giải độc, khai khiếu hóa đàm, lương can tức phong. Dùng trong các bệnh nhiệt sốt cao phát cuồng, thần trí hôn mê, trúng phong bất tỉnh, cổ họng sưng đau, ung thư, đinh nhọt. Trong dân gian, ngưu hoàng thường được dùng
làm Thuốc trấn tĩnh và mạnh tim trong các trường hợp có triệu chứng điên cuồng, sốt quá phát cuồng, người co quắp, trẻ nhỏ bị kinh phong.Ngưu hoàng thường chỉ sử dụng với liều nhỏ, từ 0,3 - 0,6g; dưới dạng bột hay phối hợp với các vị Thuốc khác làm thành viên. Cấm chỉ định với và phụ nữ có thai.
Sỏi lợn/heo (trư cát)
Cát lợn hay còn gọi là trư sa, trư bảo, là một loại kết tụ vật chất trong hệ tiêu hóa của con lợn như trong dạ dày, trong ruột, trong mật. Trư sa được tạo thành nếu thời gian đủ dài sẽ có mùi thơm thảo mộc nhẹ nhàng, đặc biệt khi để trong không khí. Đông y cổ xưa đã sử dụng trư sa để hỗ trợ điều trị các bệnh như: an thần, động kinh, hốt hoảng lo âu, trị mất ngủ, thanh nhiệt, giải độc, tiêu đàm.
Sỏi chó (cẩu bảo)Đây là sỏi kết trong mật con chó. Hình dạng giống như viên đá trắng, hơi phơn phớt xanh, do nhiều lớp xếp lại. Thuốc có vị mặn, tính ấm, chữa các chứng phản vị thuộc chứng vị hư hàn, người bệnh nghẹn tắc, khó ăn uống hoặc ăn xong lại nôn ra, bụng trướng đầy, tiêu hóa kém.
Sỏi của con khỉ (hầu táo)Đây là sỏi kết tụ trong nội tạng con khỉ, hình dạng giống như quả táo. Thuốc có vị đắng, hơi mặn, tính lạnh quy vào 4 kinh tâm, phế, can, đởm. Tác dụng thanh nhiệt, thông đàm, ngừng ho, định suyễn. Chủ trị các chứng suyễn thở, khò khè do đàm nhiệt bí tắc ở cổ họng. Trẻ em cấp kinh co giật, đàm quyết, chân tay lạnh, cứng đờ do đàm gây ra. Liều dùng 0,3 - 0,9g, tán nhỏ mịn rồi hòa nước uống, hoặc cho vào Thuốc hoàn, Thuốc tán, không dùng trong Thuốc sắc. Thuốc có tính lạnh, người không có nhiệt đàm thì không được dùng.
BS.CKii. HUỲNH TẤN VŨ