Nhiều nghiên cứu khoa học khẳng định rằng, kiểm soát chỉ số ĐH sau ăn bình thường và ổn định đã làm giảm một cách có ý nghĩa tỷ lệ mắc các bệnh tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ). Hiện nay, đây là một trong những mục tiêu điều trị quan trọng đối với người bệnh ĐTĐ tại nhiều quốc gia trên thế giới.
>> TƯ VẤN TÂM LÝ - KHÁM BỆNH MIỄN PHÍ TẠI AloBacsi.vnĐTĐ týp 2 được định nghĩa bởi tình trạng tăng ĐH mạn tính đã và đang là một trong những mối đe dọa chủ yếu đến sức khỏe con người ở thế kỷ 21. ĐTĐ là một nguy cơ chính của các bệnh tim mạch. Nguy cơ Tu vong do nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân ĐTĐ cao gấp 2-10 lần so với người bình thường là một ví dụ minh chứng cho nhận xét nói trên.
Kiểm tra đường huyết Những yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành có thể điều chỉnh và thay đổi được đó là tăng huyết áp động mạch, rối loạn lipid máu với LDL-C tăng, HDLC giảm và nồng độ hemoglobine Alc (HbA1c). Với người bệnh ĐTĐ týp 2, những yếu tố nguy cơ này cần phải được kiểm soát hết sức chặt chẽ, nhất là ĐH và/hoặc nồng độ HbA1c. Cần nhấn mạnh rằng, tần suất các biến chứng tim mạch do tổn thương vi mạch hay các mạch máu lớn đều liên quan đến sự cân bằng ĐH và biến chứng tim mạch tăng lên rõ rệt ngay khi tỷ lệ HbA1c vượt quá 6%. Tỷ lệ nhồi máu cơ tim trong 10 năm giảm tới 15% nếu nồng độ HbA1c giảm 0,9%. Điều này chứng tỏ kiểm soát ĐH là một mục tiêu đặc biệt quan trọng đối với bệnh nhân ĐTĐ. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của Hội ĐTĐ Hoa Kỳ thì không nên sử dụng HbA1c như một chỉ số duy nhất để chứng tỏ sự ổn định về nồng độ ĐH bệnh nhân, mà cần phải lưu ý đến lượng ĐH sau ăn của người bệnh.Tăng ĐH sau ăn đóng vai trò hàng đầu trong biến chứng tim mạch ở bệnh nhân ĐTĐ
Chỉ chú ý điều chỉnh nồng độ ĐH khi đói ở bệnh nhân ĐTĐ là chưa đủ. Người ta nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người ĐTĐ týp 2 tương quan với lượng đường trong máu sau ăn và không liên quan với lượng ĐH khi đói. Điều chỉnh nồng độ ĐH khi đói hoặc HbA1c hoặc cả 2 mà không điều chỉnh ĐH sau ăn sẽ không làm giảm được tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người ĐTĐ. Ngược lại, kiểm soát chặt chẽ ĐH trước và sau ăn cho phép làm giảm có ý nghĩa tỷ lệ mắc bệnh tim mạch.
Người ta nhận thấy rằng, tần suất nhồi máu cơ tim cao hơn 40% ở những bệnh nhân có nồng độ ĐH sau ăn lớn hơn 10 mmol/l so với những bệnh nhân có nồng độ ĐH sau ăn thấp hơn 8 mmol/l. Hàng loạt các nghiên cứu khoa học đã nhấn mạnh sự tương quan giữa mức độ tăng ĐH sau ăn và nguy cơ Tu vong tim mạch, độc lập với nồng độ ĐH khi đói của bệnh nhân. Theo những nghiên cứu gần đây thì nguyên nhân của hiện tượng này là do những dao động tức thì của nồng độ ĐH sau ăn, đã làm biến đổi sự giải phóng gốc tự do và biến đổi các sản phẩm tạo ra từ gốc tự do. Thêm vào đó, chức năng nội mạc của mạch máu cũng thay đổi và nồng độ ôxít nitơ (NO) bị biến loạn. Ngoài ra, tăng ĐH sau ăn gây rối loạn hoạt động chức năng của các sợi collagen trong cấu trúc mạch máu và giảm thiểu khả năng giãn của các mạch máu trong cơ thể người bệnh.Hiện nay, biện pháp hiệu quả phòng ngừa nguy cơ biến chứng tim mạch đối với người bệnh ĐTĐ týp 2 là quan niệm điều trị tích cực: tiếp cận chẩn đoán sớm, điều trị đồng bộ, nhằm bình thường hóa và ổn định ĐH khi đói và đặc biệt là ĐH sau ăn - một thái độ điều trị mà hiện nay đang rất cần được sự lưu ý đúng mức ngay cả đối với nhiều thầy Thu*c chuyên khoa.
AloBacsi.vn (Theo Sức khỏe & Đời sống)
Chủ đề liên quan:
bệnh nhân bệnh nhân đái tháo đường bệnh tim bệnh tim mạch căn nguyên chinh phục chuyên chuyên môn cơ tim đái tháo đường đôi mắt estrogen giới chuyên môn hành trình hanh xu hiệu quả ích tâm khang khó tính nhồi máu nhồi máu cơ tim