Ngoại Tim mạch hôm nay

Phẫu thuật tim mạch là nhiệm vụ chính trong việc khám, điều trị và can thiệp tim mạch, lồng ngực và các mạch máu ngoại vi bằng phương pháp ngoại khoa như nội soi, mổ phanh truyền thống, phẫu thuật can thiệp. Khoa ngoại tim mạch chuyên về điều trị các bệnh lý ngoại khoa có liên quan đến vấn đề lồng ngực - tim mạch như tim bẩm sinh, suy tim, phình động mạch, tổn thương/chấn thương thành ngực, phổi và các cơ quan trong lồng ngực như: gãy xương sườn, xương ức, thủng thành ngực, tổn thương các cơ quan tim, phổi, mạch máu,...

Tiếp cận và dự phòng các bệnh tim mạch và mạch não

Trên 50 triệu người lớn tại Hoa Kỳ bị tăng huyết áp. Ở mỗi nhóm tuổi người lớn, các giá trị cao hơn về huyết áp tâm thu và tâm trương mang đến các nguy cơ cao hơn về đột quỵ não và suy tim sung huyết.

Đã đạt được giảm mạnh tỷ lệ ch*t theo lứa tuổi do bệnh tim và đột quỵ ở mọi nhóm tuổi tại Bắc Mỹ trong hai thập kỷ vừa qua. Lý do chủ yếu của xu hướng thuận lợi này hình như là sự biến đổi các nhân tố nguy cơ đặc biệt là hút Thu*c lá và tăng cholesterol huyết cộng với việc phát hiện và điều trị tăng huyết áp tích cực hơn.

Hút Thu*c lá

Hút Thu*c lá vẫn còn là nguyên nhân quan trọng nhất của tình trạng bệnh có thể dự phòng và ch*t sớm ở các nước đã phát triển. Trong năm 1990 ở Hoa Kỳ, hút Thu*c lá đã gây ra khoảng 420.000 ca ch*t và trên 1,1 triệu năm khả năng sống bị mất đi. Hiện nay, Thu*c lá chịu trách nhiệm về một phần năm những ca ch*t ở Hoa Kỳ. Có thể là ngay cả các con số nổi bật này vẫn còn đánh giá thấp toàn bộ các rủi ro của hút Thu*c lá. Nghiện Thu*c lá có thể có một thành phần di truyền. Những người hút Thu*c lá có hai lần nguy cơ bệnh tim gây ch*t, mười lần nguy cơ ung thư phổi và nhiều lần nguy cơ ung thư miệng, họng, thực quản, tụy, thận, bàng quang, cổ tử cung; có nguy cơ cao hơn hai đến bốn lần bị gẫy xương hông, cổ tay và cột sống; và tăng hai lần về nguy cơ bệnh đục nhân mắt phát triển. Mỗi năm đem lại những khám phá mới về các nguy cơ khác do hút Thu*c lá. Gần đây nhất, hút Thu*c lá đã liên quan với các nguy cơ tăng lên về bệnh bạch cầu, ung thư ruột kết và tuyến tiền liệt, chứng loãng xương. Khứu giác và vị giác bị tổn hại và các nếp nhăn ở mặt tăng lên ở những người hút Thu*c lá. Những người bệnh đái tháo đường hút Thu*c lá có nguy cơ tăng lên có protein - niệu. Các bệnh nhân ung thư ở vùng đầu và cổ vẫn tiếp tục hút Thu*c lá trong khi nhận liệu pháp chiếu xạ có các tỷ lệ đáp ứng thấp hơn những người không hút. Những người hút Thu*c lá ch*t sớm hơn những người không bao giờ hút 5 - 8 năm.

Bỏ Thu*c lá làm giảm các nguy cơ ch*t và nhồi máu cơ tim ở cả nam giới và nữ giới bị bệnh mạch vành; giảm nguy cơ đột quỵ máu não; làm chậm tốc độ của tiến triển vữa xơ động mạch cảnh; và liên quan với sự hồi phục của viêm phế quản mạn tính và cải thiện chức năng phổi. Người ta dự tính rằng phụ nữ hút Thu*c khi bỏ Thu*c lá trước tưổi 35 thêm được 3 năm vào tuổi thọ trung bình của họ, và nam giới thêm hơn 2 năm vào tuổi thọ trung bình. Bỏ Thu*c lá có thể làm tăng tuổi thọ trung bình cả đối với những người bỏ hút sau tuổi 65.

Con cái của những bệnh nhân hút Thu*c lá có cân nặng khi sinh thấp hơn, hay bị nhiễm khuẩn hô hấp hơn, chức năng phổi kém hiệu lực và có tỷ lệ mắc bệnh tai mạn tính cao hơn con cái những người không hút Thu*c và bản thân dễ trở thành nghiện Thu*c lá hơn. Ngoài ra, hút Thu*c lá thụ động do những người lớn đã được thấy là làm tặng nguy cơ bị ung thư ở vùng đầu, ung thư phổi, bệnh tim, thúc đẩy tổn thương hội mô, và kết tập tiểu cầu và làm tăng tiết chất gây ung thư phổi đặc trưng của Thu*c lá ra nước tiểu.

Mới đây đã có một xu hướng quốc dân khích lệ bố hút Thu*c lá. Năm 1991, 26% số người lớn ở Hoa Kỳ nghiện Thu*c lá. Số nam giới hút Thu*c thường là hơi nhiều hơn nữ giới (28,1% so với 23,5%). Một phần tư số người lớn ở Hoa Kỳ là những người trước đây hút Thu*c lá. Từ 1965 đến 1985 tỉ lệ lưu hành hút Thu*c lá giảm đi 0,5% một năm và từ 1987 đến hết năm 1990 giảm đi 0,1% một năm - nhưng từ năm 1990 sự giảm này đã chững lại. Các thây Thu*c lâm sàng có thể góp phần làm giảm tỷ lệ hút Thu*c bằng cách giúp những người hút Thu*c phá bỏ thói nghiện nicotin và thuyết phục trẻ em không bao giờ tập hút Thu*c lá. Thày Thu*c lâm sàng phải thực hiện một chiến lược bỏ Thu*c lá năm bước: (1) hỏi bệnh nhân về lợi ích bỏ Thu*c, (2) thúc đẩy bệnh nhân muốn bỏ Thu*c, (3) đặt một ngày hẹn ngừng hút Thu*c hoàn toàn, (4) suy nghĩ về dùng Thu*c chữa để cai nghiện, (5) theo dõi. Một bản điều tra mới đây cho thấy ràng chỉ có 44% những người nghiện Thu*c lá đã đến gập bác sĩ cách đây hơn một năm đã được khuyên bảo bỏ hút. Những người hút Thu*c bị suy nhược có thể gặp nhiều khó khăn về bỏ Thu*c hơn người nghiện Thu*c không suy nhược, và khi những người suy nhược bỏ Thu*c, có thể sự suy nhược tăng thêm. Bảng liệt kê các lợi ích tức thời do bỏ Thu*c mà thầy Thu*c có thể gợi sự chú ý của những người hút Thu*c. Hai phần ba số người hút Thu*c đi tới thầy Thu*c khám mỗi năm và những người mà các thầy Thu*c khuyên bỏ có khả năng đã thử bỏ Thu*c 1,6 lần.

Kẹo gôm nicotin polacrilex 2mg có thể làm giảm các triệu chứng bỏ Thu*c lá và trong một số nghiên cứu đã đưa tới các tỷ lệ bỏ Thu*c cao hơn, đặc biệt đối với những người nghiện năng nhất. Song một số bệnh nhân không thể nhai kẹo cao su mà không bị các tác dụng phụ không mong muốn như nấc, khó chịu ở miệng, ợ nóng, buồn nôn và rối loạn dạ dầy - ruột. Chống chỉ định dùng kẹo cao su nicotin là thai nghén, hoặc cho con bú, mất khả năng nhai, nhồi máu cơ tim mới mắc và loạn nhịp tim đe dọa tính mạng. Mới đây một mảnh đắp xuyên da đã được phát triển để cung cấp việc phát ra nicotin được kiểm soát và liên tục. Một lần đắp buổi sáng mảnh 15cm2 có thể cung cấp tới 24 giờ giảm nhẹ các triệu chứng bỏ nicotin. Mảnh này dễ đắp, loại bỏ sự khó chịu ở miệng, và giảm thiểu các tác dụng phụ. Nó có nhiều liều lượng (ví dụ 21mg, 14mg hoặc 7mg trong 24 giờ). Thường bắt đầu với mảnh, cọ liều cao nhất trong khoảng 3 tuần và dùng các mảnh có liều thấp hơn để làm bệnh nhân dần dần nhận ít nicotin hơn trong một thời gian ít nhất là 3 tuần lễ nữa (thời hạn tốt nhất hiện nay chưa rõ). Một mảnh 21mg giá khoảng 3 đôla. Các báo cáo đầu tiên về sử dụng mảnh nicotin cho thấy các tỷ lệ bỏ Thu*c cao hơn đáng kể so với các nhóm dùng Thu*c trấn an. Liệu pháp dùng Thu*c với kẹo cao su hoặc mảnh đắp phải được kết hợp với một hình thức nào đó về tư vấn, hoặc trong điều trị nhóm hoặc do những người cung cấp cho cá nhân để đạt hiệu quả tối đa. Hít nicotin có thể nổi lên như là phương tiện thay thế hoặc bổ sung cho kẹo cao su và mảnh đắp. Clonidin có thể làm giảm các triệu chứng bỏ Thu*c ở những bệnh nhân cố gắng bỏ Thu*c. Vai trò của nó trong việc bỏ Thu*c lá còn đang tranh luận.

Băng. Một số ảnh hường tức thì của bỏ Thu*c lá

Cải thiện chức năng thở.

Phục hồi các giác quan ngửi và nếm.

Giảm sự nhiễm khói bị động của gia đình và các người khác.

Tiết kiệm tiền.

Cần ngủ ít hơn.

Tăng nghị lực.

HÍt thở sảng khoái

Môi trường không có mùi.

Không phải đổ tàn Thu*c lá.

Không có các lỗ thủng do cháy.

Giảm nguy cơ ch*t vì đám cháy 80%.

Giảm vết đen Thu*c lá ở răng, ngón tay.

Giảm các nguy cơ hút Thu*c bi dộng cho gia dinh và những người cùng làm việc.

Dễ kiếm việc làm hơn.

Bảo hiểm nguy cơ tốt hơn và các phí bảo hiếm rẻ hơn.

Cải thiện việc làm sạch phổi nhờ khả năng ho khạo và cải thiện hoạt động các lông mao đường thở.

Cải thiện tuần hoàn vành và ngoại biên.

Giảm rihip tim.

Giảm các mức dộ cacbon monoxid máu.

Giảm ra mồ hôi.

Nâng cao sức chịu dựng tập luyện.

Nâng cao khả năng hoàn thành công việc chân tay.

Giảm các hóa đơn mua tạp phẩm.

Thì giờ tăng thêm.

Giảm sức ép xã hội.

Tăng cân xẩy ra ở phần lớn các bệnh nhân (79%) sau khi ngừng hút Thu*c. Đối với phần lớn các bệnh nhân, tăng cân ít (trung bình 2,27kg), nhưng đối với một số bệnh nhân (10 - 14%) có thể tăng cân nhiều (trên 13,15kg).

Các thầy Thu*c lâm sàng phải tránh tỏ ra phản đối các bệnh nhân không thể bỏ hút Thu*c. Khuyên nhủ chu đáo, các sức ép gia đình hoặc xã hội, hoặc cơ hội đưa đến do đau yếu gian phát sớm hay muộn có thể tạo khả năng cho ngay cả người nghiện kinh niên nặng nhất từ bỏ thói quen hoặc ít ra là giảm bớt hẳn việc hút Thu*c. Ngay với các ước đoán bi quan nhất, tư vấn như vậy vẫn có ích lợi và đỡ tốn kém hơn là điều trị tăng huyết áp hoặc tăng cholesterol huyết.

Bảng. Vai trò thầy Thu*c trong việc ngừng hút Thu*c lá

Đối với bệnh nhân

Hỏi

Mọi bệnh nhân về hút Thu*c

Khuyên

Mọi người hút Thu*c nên bỏ Thu*c lá

Nếu lời khuyên một cách rõ ràng như "Với tư cách thầy Thu*c của anh (chị), tôi phải khuyên anh thôi hẳn Thu*c lá từ nay trở đi".

Giúp đỡ

Các bệnh nhân muốn bỏ hút Thu*c từ bây giờ.

Giúp bệnh nhân lựa chọn ngày bỏ Thu*c.

Cung cấp các chất liệu tự lực.

Cân nhắc nên cấp kẹo cao su nicotin hay mảnh đắp nicotin xuyên da, dặc biệt cho các bệnh nhân nghiện nặng.

Sắp xếp các lần thăm theo dõi

Bố trí thời gian dến thăm theo dõi sau ngày bỏ Thu*c 1- 2 tuần.

Cho một nhân viên của phòng mình gọi diện hoặc viết thư cho bệnh nhân trong 7 ngày sau lần thăm đầu tiên, củng cố quyết định bỏ Thu*c lá và nhắc nhở bệnh nhân về ngày bỏ Thu*c.

Định thời gian thăm theo dõi lần thứ hai trong 1- 2 tháng.

Đối với xã hội

Nêu gương cá nhân.

Tham gla vào quá trình lập pháp.

Làm tham vấn cho ngành công nghiệp.

Hoạt động thông qua các chương trình y tế công cộng và sức khỏe học đường để giữ cho thanh thiếu niên không bắt dầu tập hút Thu*c lá.

Làm việc với các cơ quan tình nguyện.

Cố gắng đạt tới một xã hội không có khói Thu*c lá.

Tăng Cholesterol huyết

Hạ thấp nồng độ cao cholesterol ở mức phát triển chậm làm giảm nguy cơ bệnh tim do động mạch vành. Mức tăng thêm tuổi thọ trung bình được tính ra do giảm Cholesterol huyết đơn thuần là thấp, đặc biệt ở những bệnh nhân không có các yếu tố nguy cơ như hút Thu*c lá và tăng huýết áp. Song đối với các bệnh nhân có nguy cơ cao như là những người đã bị nhồi máu cơ tim, các lợi ích do hạ thấp các mức cholesterol có thể lớn lao. Các mức độ cholesterol ở những người lớn tại Hòa Kỳ đã giảm thấp nhiều trong 3 thập kỷ qua.

Tăng huyết áp

Trên 50 triệu người lớn tại Hoa Kỳ bị tăng huyết áp. Ở mỗi nhóm tuổi người lớn, các giá trị cao hơn về huyết áp tâm thu và tâm trương mang đến các nguy cơ cao hơn về đột quỵ não và suy tim sung huyết. Tuy thế, các thày Thu*c lâm sàng phải có khả năng áp dụng cầc tiêu chuẩn huyết áp cụ thể làm một phương tiện để quyết định ở các mức độ nào phải cân nhắc việc điều trị trong các trường hợp cá nhân. Dự phòng bước đầu tăng huyết áp có thể thực hiện bằng các chiến lược nhằm vào toàn dân và số dân có nguy cơ cao đồng thời. Nhóm dân có nguy cơ cao bao gồm những người có huyết áp cao, bình thường hoặc tiền sử gia đình tăng huyết áp, những người da đen và những cá nhân có các nhân tố nguy cơ về hành vi khác nhau như là thiếu hoạt động thân thể, tiêu thụ quá nhiều muối, rượu hoặc calo, ăn uống thiếu kali. Các can thiệp có hiệu lực được thấy trong tư liệu về dự phòng bước đầu tăng huyết áp bao gồm giảm ăn uống natri, rượu, giảm cân nặng và tập luyện thân thể đều đặn. Các can thiệp có hiệu lực hạn chế hoặc chưa xác minh bao gồm việc bổ sung các viên kali, calci, magiê, dầu có hoặc chẩt xơ, biến đổi chất nuôi dưỡng vĩ mô và xử lý stress.

Dụ phòng bằng hóa dược

Aspirin có lợi ích dự phòng bước một và bước hai về nhồi máu cơ tim cấp tính và nhồi máu não.


Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/chandoantrieuchung/tiep-can-va-du-phong-cac-benh-tim-mach-va-mach-nao/)

Chủ đề liên quan:

bệnh tim bệnh tim mạch mạch não

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY