Cây thuốc quanh ta hôm nay

Tránh nhầm lẫn những dược liệu có tên phụ tử

Trong Đông y có một số dược liệu mang tên “phụ tử”. Đây đều là những dược liệu có độc tính, thậm chí là rất lớn.
Hàng năm, ở nước ta, thỉnh thoảng vẫn xảy ra những vụ ngộ độc ch*t người do ô đầu, phụ tử, phần lớn là do sự thiếu hiểu biết về các cây Thu*c này. Vì vậy, trong quá trình khai thác các vị Thu*c gọi là “phụ tử”, từ nguồn dược liệu đầu vào đến việc chế biến và sử dụng chúng, cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc để tránh nhầm lẫn.

Cây ô đầu

Ở Việt Nam, cây ô đầu có tên khoa học là Aconitum fortunei Hemsl., hoặc Aconitum carmichaeli Debx., họ Hoàng liên (Ranunculaceae). Có 2 loại: ô đầu mọc hoang ở một số vùng núi Lào Cai, Hà Giang… và di thực từ cây ô đầu Trung Quốc.

Ô đầu thân đứng thẳng, hình trụ, ít phân nhánh, cao khoảng 0,6-1m. Lá mọc so le có gân hình chân vịt, lá non hình tim tròn, có răng cưa; lá già xẻ 3-5 thùy, mép khía răng cưa. Cụm hoa mọc thành chùm ở ngọn thân. Quả gồm 5 đài mỏng. Từ cây ô đầu cho 2 dược liệu quý: Ô đầu là rễ cái của cây ô đầu, thường gọi là củ. Vị thứ hai là sinh phụ tử, là các rễ nhánh, tức những củ con phát sinh từ củ cái. Cả hai đều được sử dụng làm Thu*c. Tuy nhiên, vị Thu*c ô đầu (củ cái) chỉ được sử dụng bên ngoài làm Thu*c xoa bóp: củ ô đầu thái mỏng, ngâm rượu 40-60% trong nhiều ngày, xoa bóp chữa bong gân, sai khớp, đau xương khớp, lưng gối. Loại rượu này có độc tính rất cao (chứa alcaloid có độc tính lớn, như aconitin, mesaconitin, hypaconitin, pseudaconitin...) nên không được uống.

Để sử dụng được phụ tử, phải chế biến kỹ. Sinh phụ tử được chế biến để có phụ tử (chế). Phụ tử chế tồn tại dưới 3 dạng: diêm phụ - là sinh phụ tử được chế với muối ăn và magnesi clorid. Diêm phụ là nguyên liệu trung gian để chế bạch phụ và hắc phụ. Bạch phụ là sản phẩm cũng chế biến từ sinh phụ tử hay diêm phụ. Hắc phụ là sản phẩm được chế biến từ diêm phụ hoặc sinh phụ tử. Chỉ có bạch phụ, hắc phụ mới được phép sử dụng uống trong với liều 4-12g.

Theo YHCT, phụ tử (chế) có vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, có độc. Quy vào các kinh tâm, thận với công năng hồi dương cứu nghịch, bổ hỏa trợ dương, tán hàn chỉ thống. Trị chứng vong dương, thoát dương, chân tay lạnh, đau nhức xương khớp, lưng gối đau lạnh, chân tay phù nề.

Trị các chứng vong dương, thoát dương, người lạnh, chân tay lạnh, nôn mửa: phụ tử (chế) 10g, can khương 5g, cam thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Trị đau dây thần kinh, viêm khớp dạng thấp, bán thân bất toại: phụ tử (chế) 5g, quế nhục, bạch thược, thương truật, đại táo mỗi thứ 4g, cam thảo 2g, sinh khương 1g. Sắc uống ngày 1 thang.

Kê tâm bạch phụ, bạch phụ tử, đại bán hạ (Typhonium giganteum Engl.), họ Ráy (Araceae). Cây có lá mọc từ thân rễ, thường có từ 1-4 lá, khi lá mới ra, lá cuộn lại thành dạng góc nhọn, cho nên còn có tên “Độc giác liên”; lá có cuống dài. Phiến lá có 3 góc. Hoa nhỏ. Thân rễ hình trứng hoặc hình thoi, bên ngoài phủ một lớp vảy màu xám. Cây sống ở nơi ẩm ướt trong rừng hoặc được trồng ở một số địa phương thuộc tỉnh Hà Nam và Sơn Đông, Thiểm Tây (Trung Quốc). Vào tháng 7-8, đào lấy thân rễ (củ), cạo bỏ lớp vỏ bên ngoài, rửa sạch, phơi hoặc sấy khô ở nhiệt độ thấp, ngâm trong nước sạch; ngày thay nước 2-3 lần. Khi củ mềm, lấy ra ngâm với nước phèn chua đến hết vị tê, cay, xếp vào ang sành, cứ một lớp củ lại lớp gừng tươi thái phiến và phèn chua theo tỷ lệ 100kg bạch phụ, 25kg gừng tươi, 12,5-25kg phèn chua; thêm nước sạch đủ ngập. Ngâm 3-4 tuần lễ. Lấy ra, cho vào nồi nhôm, thêm nước, đun kỹ. Đổ củ ra, bỏ gừng, phơi đến 6 phần khô, ủ mềm, thái phiến.

Theo YHCT, kê tâm bạch phụ vị cay, ngọt, tính ôn, nhiệt, có độc. Tác dụng trừ phong, trấn kinh. Liều dùng 1-1,5g. Trị đau đầu dữ dội, đầu đau căng, giật; trúng phong, miệng, mắt méo xệch, bán thân bất toại, uốn ván. Phối hợp với bán hạ (chế), thiên nam tinh (chế), toàn yết 2 con. Sắc uống ngày 1 thang. Không dùng cho phụ nữ có thai và đang cho con bú.

Bạch phụ tử, hay Dầu mè đỏ, San hô (Jatropha multiphida L.), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây nhỡ, nhẵn, cao đến 6m. Lá xẻ hình chân vịt, sâu; các thùy có nhiều răng hẹp, cuống dài bằng lá. Cụm hoa hình xim, dạng tán, có cuống dài mang hoa đơn tính, màu đỏ. Quả nang, hình trứng ngược. Cây được trồng làm cảnh, nhiều nơi ở nước ta. Bộ phận dùng là rễ củ. Rễ có tính độc, do chứa acid cyanhydric.

Bạch phụ tử có vị cay, ngọt, rất nóng, có độc. Tác dụng tán ứ, tiêu thũng, chỉ huyết. Trị cảm lạnh, mất tiếng, trúng phong, co cứng, bại liệt, đau tim do huyết ứ và các bệnh phong ở đầu mặt... Trị tim đau do máu ứ nguy cấp: bạch phụ tử, nhục quế, đương quy mỗi vị 6g. Sắc uống ngày 1 thang.

GS.TS. Phạm Xuân Sinh

Mạng Y Tế
Nguồn: Sức khỏe đời sống (http://suckhoedoisong.vn/tranh-nham-lan-nhung-duoc-lieu-co-ten-phu-tu-n133807.html)

Tin cùng nội dung

  • Khi sơ cứu bằng gây nôn cho trẻ, người lớn phải lưu ý móc họng trẻ cho khéo, tránh làm xây xát họng trẻ.
  • Trứng, gan và mật cóc chứa nhiều bufotoxine, đây là chất cực độc đủ gây ch*t người với liều lượng rất nhỏ.
  • Hiện nay, vẫn còn khá nhiều người khi bị đau bụng đi ngoài thường ra hiệu Thuốc hỏi mua Thuốc cầm đi ngoài và được người bán Thuốc bán cho loại Thuốc cầm tiêu chảy rất phổ thông là loperamid.
  • Để sử dụng đúng và có hiệu quả các loại dược liệu, các Bác sĩ viện Y học cổ truyền Trung ương, xin đưa ra hướng dẫn phòng và điều trị bệnh sởi, bằng Y học cổ truyền như sau:
  • Khi dân số có tới gần 30% mắc các bệnh lý về dạ dày và được dự báo sẽ tăng nhanh hơn nữa thì cần phải chú ý điều trị hệ quả của căn bệnh này trước, để giúp bữa ăn mỗi ngày thêm ngon.
  • *m đ*o phụ nữ luôn tiết dịch, nếu không thấy ngứa và dịch không có màu, không có mùi hôi là hiện tượng S*nh l* bình thường. Khi có biểu hiện ra khí hư nhiều, có màu trắng, loãng hoặc đặc, nặng có thể kèm theo mệt mỏi, gầy sút kém ăn, lưng đau, mỏi gối,… là mắc chứng khí hư bạch đới. Khí hư bạch đới do nhiều nguyên nhân, tùy từng thể bệnh mà có cách điều trị phù hợp.
  • Theo Lương y Trịnh Văn Sỹ, không nên xem nhẹ bệnh quai bị. Quai bị nếu không được điều trị sẽ dẫn tới bị biến chứng thậm chí có thể vô sinh sau này. Nguyên tắc điều trị theo Đông y: chống viêm, trừ thấp, thanh nhiệt, nâng đỡ thể trạng. Đông y xếp bệnh quai bị vào loại “ôn dịch”.
  • Bình thường tất cả các loại thực phẩm đều có chứa một lượng nhỏ vi khuẩn. Việc xử lý thực phẩm kém, chế biến hoặc dự trữ thức ăn không thích hợp có thể làm vi khuẩn nhân lên thành số lượng đủ lớn để gây bệnh. Ký sinh trùng, virus, độc tố và hóa chất cũng có thể gây ô nhiễm thực phẩm và gây bệnh.
  • Đông y sử dụng các loại thảo mộc để điều trị bệnh. Vậy thì, dựa vào những nguyên tắc gì để điều trị bệnh trong đông y
  • Đông y cho rằng nhờ vào tính vị khác nhau nên mỗi vị Thuốc có tác dụng khác nhau. Bất kì loại nguyên liệu nào đều có thể trở thành một vị Thuốc đông y.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY