Ngoài ra, quan hệ T*nh d*c sớm, thường xuyên quan hệ T*nh d*c trong kỳ kinh nguyệt… là một trong những tiền tố quan trọng trong bệnh ung thư cổ tử cung. Vì vậy, giữ gìn, kiểm soát vệ sinh sạch sẽ V*ng k*n, nhất là trước và sau khi quan hệ T*nh d*c là nhiệm vụ chính, cơ bản bảo vệ tử cung.
Sau ba tháng mang thai vẫn nên hạn chế quan hệ T*nh d*c vì nó kích thích co bóp tử cung và gây ra sảy thai, sinh non, chảy máu tử cung hoặc sốt hậu sản. Đặc biệt là 4 tuần cuối của thai kỳ, quan hệ T*nh d*c có thể gây viêm màng não bào thai, dẫn đến vỡ màng ối sớm, sinh non và nguy cơ nhiễm trùng hậu sản
Một tháng trước ngày dự sinh hoặc ba tuần sau khi thai nhi đã trưởng thành, cổ tử cung dần dần mở ra. Nếu thời gian này quan hệ T*nh d*c, nước ối nhiều khả năng bị nhiễm trùng. Ngoài ra có thể gây sinh non, thai nhi trong bụng mẹ cũng có thể bị nhiễm khuẩn bởi người mẹ cũng như tác động của bệnh, dẫn đến phát triển thể chất và tinh thần suy giảm.
Với những người có tiền sử sẩy thai, Ph* thai thì nên tuyệt đối tránh giao hợp trong toàn bộ thai kỳ để tránh gây ra những hậu quả đáng tiếc.
Sau khi sinh cổ tử cung tử cung vẫn còn to và nặng, trong khi các cơ và dây chằng nâng đỡ ở đáy chậu còn đang mềm yếu, chưa phục hồi sau thai nghén. Nếu sớm ngồi xổm hoặc làm công việc nặng nhọc sẽ khiến dạ con dễ bị sa xuống dưới. Những phụ nữ sinh con nhiều lần có nguy cơ sa tử cung cao hơn.
Sinh thai dị tật gây nguy hiểm cho sự an toàn của tử cung, đồng thời gây ảnh hưởng nặng nề tới tâm lý người mẹ và gia đình. Những người có nguy cơ sinh thai dị tật thuộc một trong những nhóm sau đây:
Tuổi của phụ nữ mang thai ở độ tuổi trên 38, do trứng bị lão hóa, thậm chí chứa nhiều bất thường dẫn dến dị tật bẩm sinh hoặc có nguy cơ lớn mắc hội chứng Down. Nếu người chồng trên 50 tuổi, người vợ trẻ hơn thì tinh trùng có sự lão hóa cũng cần phải thực hiện kiểm tra sinh thai dị tật.
Thường xuyên nạo Ph* thai, sinh non hoặc thai ch*t trong tử cung thường do một hoặc cả hai vợ chồng gây ra bởi các bất thường nhiễm sắc thể, khi mang thai lần nữa cũng thuộc nhóm nguy cơ.
3 tháng đầu thai kỳ, phụ nữ mang thai thường bị rubella, herpes zoster, herpes simplex, bệnh cytomegalovirus và nhiễm virus khác, do nhiễm trùng dễ bị dị tật thai nhi cần phải thực hiện tất cả các kiểm tra để xác định thai nhi có phát triển bất thường hay không.
Cũng trong thời kỳ đầu này nếu thai phụ đã sử dụng Thu*c có thể gây dị tật bào thai, hoặc nhận phải vật liệu bức xạ dễ gây dị tật thai nhi cần đến các trung tâm tư vấn trước sinh để kiểm tra, xem xét.
5. Bỏ qua việc thường xuyên chăm sóc trước khi sinhPhụ nữ trong suốt thời kỳ mang thai cần có hệ thống chăm sóc chi tiết và kịp thời trước khi sinh. Lợi ích của nó là:
- Hiểu biết về sự phát triển thai nhi và sự thay đổi của người mẹ sẽ dễ dàng điều trị sớm nếu phát hiện bất thường.
- Thông qua một hệ thống quan sát toàn diện có thể xác định phương pháp điều trị và lựa chọn hình thức sinh để đảm bảo an toàn.
Một số người vì nhiều lý do Ph* thai lén lút, hoặc sinh con vắt… nhất là lại thực hiện ở những cơ sở y tế thiếu uy tín. Những thủ thuật đó gây ra hậu quả nghiêm trọng, nhiều thiệt hại hoặc nhiễm trùng tử cung thứ cấp, các biến chứng nghiêm trọng thậm chí gây ra một sự ám ảnh suổ đời về tâm lý.
Vì sức khỏe của chính mình và hạnh phúc gia đình, phụ nữ cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đi đến quyết định Ph* thai cũng như lựa chon nơi để chấm dứt thai kỳ.
7. Hơn 3 lần mang thai hoặc đa thaiMỗi thai phụ sau một lần sinh nở thì tử cung sẽ gia tăng một nguy cơ, nếu nhiều hơn 3 lần mang thai liên tiếp thì tỷ lệ nguy cơ tử cung cũng sẽ tăng lên đáng kể. Phụ nữ mang đa thai khi chuyển dạ, tử cung nở to hơn bình thường, thời gian chuyển dạ lâu hơn, khó khăn hơn. Sau sinh, mẹ dễ có nguy cơ bị băng huyết, nếu không đảm bảo điều kiện dinh dưỡng, sức khỏe sẽ dễ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là bị vỡ tử cung.
Phụ nữ mang thai trong quá trình chuyển dạ khó khăn hoặc kéo dài quá mức sản xuất oxytocin dẫn đến vỡ tử cung.
Cơ tử cung hay tử cung phân khúc trong khi mang thai hoặc sinh con được gọi là vỡ tử cung. Đó là một biến chứng sản khoa nghiêm trọng thường dẫn đến cái ch*t của đứa trẻ hoặc người mẹ.
Muốn phòng chống vỡ tử cung, phải làm tốt việc quản lý thai nghén. Sản phụ phải tự giác đến khám thai định kỳ ít nhất 3 lần hoặc mỗi tháng một lần (tháng cuối mỗi tuần một lần) để phát hiện trước những nguyên nhân có thể gây vỡ tử cung.
Những người có tiền sử đẻ khó hay phải tuyệt đối tuân theo chỉ dẫn của cán bộ y tế, phải đến các cơ sở y tế có trung tâm phẫu thuật để theo dõi và đẻ. Trường hợp có vết mổ đẻ cũ, phải tới nằm viện trước khi chuyển dạ 10 ngày để theo dõi sát sao.