Bài Thuốc gồm: sài hồ 20g, hoàng cầm 10g, toàn qua lâu 10g, binh lang 10g, pháp bán hạ 10g, thảo qủa 15g, hậu phác 15g, tri mẫu 10g, bạch thược 10g, trần bì 10g, hổ trượng căn 10g, đảng sâm 15g, cam thảo 10g.
Tri mẫu có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa, tư âm, nhuận phế, sinh tân dịch. Chữa chứng phế vị thực nhiệt, sốt cao phiền khát, phế nhiệt, phế hư triều nhiệt, khái thấu và chứng tiêu khát
Sài hồ phát biểu, hoà lý, thăng dương, giải uất. Chữa nóng rét lẫn lộn, tức ngực, đau sườn, đắng miệng, tai điếc, chóng mặt, nhức đầu, nôn mửa, sốt rét, trung khí hạ hãm, Sài hồ được coi là vị Thuốc chủ yếu để bình bổ, điều hoà các trạng thái trầm uất kích động sốt nóng sốt rét, đau quặn đan xen kéo dài mà y lý gọi là hoà giải thoái nhiệt, sơ can giải uất. Tác dụng ức chế trung khu thần kinh, làm giãn cơ, chống loét đường tiêu hoá, cải thiện chức năng gan, chống viêm, chống dị ứng, hạ sốt giảm đau, chống hen suyễn, hạ huyết áp, tăng khả năng miễn nhiễm, chống u bướu, kháng khuẩn và virus.
Bạch thược có tác dụng bổ huyết liễm âm, bình can chỉ thống. Dùng cho các trường hợp âm huyết hư, can dương vượng; làm tăng khả năng miễn nhiễm, chống viêm, kháng vi khuẩn và virus; chống thiếu máu cơ tim, giảm đau, chống kinh giật.
Hoàng cầm có tác dụng thanh nhiệt (thanh nhiệt ở phổi rất tốt), lợi thấp, tả hỏa, chỉ huyết, an thai. Trị các chứng thấp ôn, hoàng đản, nhiệt lâm, phế nhiệt khái thấu, ung nhọt sang độc, phong ôn thực nhiệt.
Qua lâu có tác dụng nhuận phế, hóa đàm, hoạt trường. Chữa ho nóng đờm dính, tức ngực, đau ngực, bí đại tiểu tiện.
Bán hạ có tác dụng trừ thấp, tán đờm, giáng khí nghịch. Chữa nôn mửa, ho có đờm, lồng ngực tức chướng, trúng phong đờm nghịch, chóng mặt do phong đờm
Trần bì có tác dụng lý khí, hoá đàm, tiêu tích, chỉ khái. Chữa ngực bụng trướng đau, nôn mửa, tiết tả, ho nhiều đờm.
Đảng sâm có tác dụng bổ trung ích khí, sinh tân, điều hoà tỳ vị. Chữa tỳ vị hư yếu, phổi kém, thân thể mệt mỏi và nóng, ăn kém, phân lỏng, ho suyễn, miệng khát.
Các vị: binh lang, thảo quả, bạch thược, hậu phác, tri mẫu, hoàng cầm, cam thảo nằm trong bài “Đạt nguyên ẩm”. Binh lang, hậu phác, thảo quả có khí vị cay mạnh, có thể tới ngay mạc nguyên, đuổi tà xuất ra ngoài; làm chủ dược. Mọi thứ tà ở ôn dịch nhiệt độc rất dễ hóa hỏa làm tổn thương đến âm cho nên dùng hoàng cầm, bạch thược, tri mẫu làm tá để tả hỏa giải độc, thanh nhiệt tư âm; cũng là phòng ngừa sự hao tán thương tổn đến âm do các Thuốc cay táo gây ra. “Đạt nguyên ẩm” có công năng khai mở tới mạc nguyên, dẹp cái bẩn, làm tiêu hóa hết cái đục, thanh nhiệt giải độc, làm uế trọc được tiêu, nhiệt độc được thanh thải, âm dịch được phục hồi, giải được bệnh tà. Đây là Thuốc hàng đầu sử dụng khi ôn dịch mới phát sinh hoặc trừ tà ẩn ở mạc nguyên trong bệnh sốt rét.