Hiện nay số trẻ bị béo phì đang gia tăng ở nước ta và là một vấn đề đáng quan tâm, lo ngại. Cần biết những đặc điểm tác hại của béo phì trẻ em (BPTE) để từ đó có cách ăn uống và dùng Thu*c thích hợp.
Hiện nay số trẻ bị béo phì đang gia tăng ở nước ta và là một
vấn đề đáng quan tâm, lo ngại. Cần biết những đặc điểm tác hại của béo phì trẻ
em (BPTE) để từ đó có cách ăn uống và dùng Thu*c thích hợp.
béo phì trẻ em và tác hại
BPTE tăng nhanh: Việt Nam từ niên khóa 1999 - 2000 đến niên
khóa 2002 - 2003 (3 năm), trẻ 6 tuổi bị béo phì tăng từ 4,4% lên 10,4 năm, trẻ
7 tuổi tăng từ 1% lên 9,5%; Nhật Bản: trong vòng 11 năm (1968 - 1979) tăng gấp
đôi; Canada: 1979 - 2009 ở tuổi thiếu niên tăng từ 15 - 26%; Trung Quốc:
với trẻ ở ngoại ô Bắc Kinh trẻ 6 tuổi bị
béo phì (BP) 4,9%, từ 9 tuổi trở lên tăng kịch phát, đến 13 tuổi tăng tới 16,2%
gấp 3 lần số trẻ béo lúc 6 tuổi.
BPTE ảnh hưởng tới sự sinh trưởng, phát dục: thời gian biết
đi bị chậm lại; vì thiếu canxi lại gánh một thân trọng quá lớn, sụn bị tổn
thương sinh ra chứng đầu gối lật vào trong hoặc lật ra ngoài, bàn chân bẹt; gây
chứng ngưng thở khi ngủ; gây suy giảm khả năng miễn dịch, dễ mắc các bệnh nhiễm
khuẩn (hô hấp, tiêu chảy); làm giảm trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ, khả năng thao
tác. Một nghiên cứu của Trung Quốc (Tiêu Lê-1998) tại 18 trường tiểu học thấy
trẻ béo phì có trí lực tổng hợp bị giảm
sút so với trẻ cùng trang lứa không bị béo phì.
BPTE dẫn tới trẻ mắc những “bệnh của người lớn”, như: hội
chứng rối loạn chuyển hóa, rối loạn lipid máu, xơ vữa mạch động mạch, viêm gan
nhiễm mỡ, đề kháng insulin, giảm dung nạp glucose, tăng nguy cơ đái tháo đường
týp 2, cao huyết áp, các bất thường đông máu, hội chứng buồng trứng đa nang; có
trẻ xuất hiện bệnh tim mạch rất sớm.
BPTE có 4 thời kỳ phát triển: béo khi còn bú sữa, béo lúc
nhỏ tuổi, béo tuổi đi học, béo tuổi trưởng thành trong đó có hai thời kỳ đáng
chú ý là béo lúc còn bú sữa và giai đoạn sau của thời kỳ trưởng thành. Từ tuần
30 của thai nhi đến hết 1 tuổi là thời kỳ sinh sản nhanh nhất của tế bào mỡ.
Nếu cho trẻ
dinh dưỡng quá độ càng thúc đẩy tế bào mỡ tăng nhanh và có tính
“vĩnh cửu”. Cho nên, béo trong thời kỳ này sẽ dẫn tới béo suốt đời. Đến 10 tuổi
tế bào mỡ vẫn tiếp tục tăng nhanh, trở thành những trẻ có cân nặng quá khổ. Nếu
trẻ từ 10 - 13 tuổi có cân nặng bình thường thì đến 31 tuổi chỉ có 30% trở
thành béo phì (nữ 42%, nam 18%) nhưng nếu ở lứa tuổi này trẻ đã có cân nặng quá
khổ thì đến 31 tuổi có 87% trở thành trở thành béo phì (nữ 88%, nam 86%).
Juonala theo dõi trong 25 năm thấy chỉ có 15% số trẻ em có cân nặng bình thường
trở thành béo phì ở tuổi trưởng thành trong khi đó có 82% số trẻ em béo phì
chuyển thành béo phì ở tuổi trưởng thành. Như vậy, có bằng chứng dịch tễ học
cho thấy: béo phì ở tuổi trẻ em liên quan đến việc tăng suất độ béo phì ở tuổi
trưởng thành.
Bằng chứng dịch tễ học cũng cho thấy BPTE liên quan tới việc
tăng suất độ xơ cứng động mạch (huyết áp cao, rối loạn lipid máu, đái tháo
đường) ở tuổi trưởng thành (Juonala - 2008).
Ăn uống, dùng Thu*c… như thế nào?
Một số tác giả nhận xét trong số thanh thiếu niên bị béo
phì, nếu có tích cực làm giảm thân trọng trong một thời gian ngắn (20 tuần),
giảm huyết áp, cải thiện rối loạn lipd máu, giảm đề kháng insulin… thì không
nhất thiết sẽ bị tăng xơ vữa động mạch ở tuổi trưởng thành. Trong các nghiên
cứu can thiệp lên bệnh BPTE, Rocchini AP (1987), Becque MD (1998), Meyer (2006)
đều kết luận: BPTE không phải lúc nào cũng làm tăng nguy cơ tim mạch nếu được
điều trị tốt. Như vậy, việc điều trị BPTE không những quan trọng với chúng mà
còn quan trọng với sức khỏe cộng đồng của người lớn sau này.
Ăn uống luyện tập:
Ở người lớn chiều cao không đổi, đánh giá kết quả điều trị
bằng việc giảm thân trọng. Ở tuổi thiếu nhi, mỗi năm trẻ tăng chiều cao 5 -
6cm, giả sử không bị béo phì thì cũng sẽ tăng thêm thân trọng theo S*nh l*.
Không thể buộc trẻ phải giảm cân hay không tăng cân mà chỉ có thể
giảm tốc độ
tăng cân một cách thích hợp để dần dần có cơ thể cân đối (giữa thân trọng và
chiều cao). Chỉ khối cơ thể (BMI) tính bằng số cân nặng (kg) chia cho bình
phương chiều cao (m). BMI có giảm là được.
Trong chế độ ăn trẻ em,
cần đảm bảo đủ năng lượng cho trẻ
hoạt động (vì trẻ phải học phải chơi) và đủ chất dinh dưỡng cho trẻ phát triển
(về thể chất tinh thần) nhưng phải cân đối để trẻ giảm tốc độ tăng cân một cách
thích hợp (BMI giảm dần dần, trở về mức
cân đối).
Dùng Thu*c:
Chỉ trẻ béo phì trên 12 tuổi mới được dùng Thu*c giảm cân.
Chỉ dùng Thu*c cho trẻ
trên 12 tuổi trong các trường
hợp: trẻ béo phì có trị số BMI lớn hơn
trị số BMI 2 đơn vị so với trị số BMI
chuẩn xác định béo phì. Nói dễ hiểu là nếu trẻ mới chớm vào ngưỡng trị số chuẩn
thì chưa dùng Thu*c ngay. Trẻ béo phì dùng Thu*c khi bị một trong tình trạng
hay triệu chứng sau: bị kháng insulin, giảm dung nạp glucose, viêm gan nhiễm
mỡ, cường androgen buồng trứng, tiền sử gia đình có bệnh đái tháo đường nhồi
máu cơ tim đột quỵ sau 12 tháng dùng chế độ ăn luyện tập thích hợp không đáp ứng (theo Dunican KC - 2007).
Chỉ dùng Thu*c khi có chỉ định của thầy Thu*c, không tự ý.
Thu*c duy nhất được dùng cho trẻ em béo phì từ 12 tuổi trở
lên là orlistat. Không được dùng cho trẻ em bất cứ một loại Thu*c nào khác dùng
cho người lớn (như: phentermin, phendimetrazin, benzphetamin, diethylpropin) vì
qua thử nghiệm thấy một số Thu*c này không có lợi cho trẻ em về tim mạch.
Oristat gắn kết với enzyme lipase trong dịch tiết dạ dày
ruột, ngăn cản sự thủy phân chất béo thành acid tự do (loại hấp thu được), nên
làm giảm hấp thu khoảng 30% lượng chất béo ăn vào, từ đó sẽ có hiệu quả giảm
được tốc độ tăng cân, giảm huyết áp, giảm cholesterol toàn phần, giảm
cholesterol xấu (LDL-C), kiểm soát được insulin huyết, đường huyết, tránh cho
trẻ bị các “bệnh của người lớn”.
Oristat có thể gây đầy hơi, không kiểm soát được đại tiện,
sẽ giảm dần khi quen dùng nhưng cũng có trẻ không chịu được. Thu*c có biệt dược
ali (không kê đơn) và xenical (bán theo đơn). Gần đây nhất (tháng 5/2010), FDA
yêu cầu nhà sản xuất phải ghi lên nhãn cảnh báo oristat có thể gây tổn thương
gan nặng (dựa vào các nghiên cứu mới nhất). Cần chú ý đến tác dụng phụ mới này.
Rất cần thiết phải dùng chế độ ăn và Thu*c cho BPTE nhưng
phải đúng cách, đúng lúc không nôn nóng, tùy tiện.
DS.CKII. BÙI VĂN UY