Cam thảo dây, Cườm thảo, Dây chi chi, Dây cườm cườm, Tương tư đằng - Abrus precatorius L., thuộc họ Đậu - Fabaceae.
Cây leo với cành nhánh nhiều và mảnh. Lá kép lông chim chẵn gồm 9 - 11 cặp lá chét thuôn, tù, màu lục sẫm; cuống lá chét và cuống lá kép đều có đốt. Hoa nhiều, nhỏ, màu hồng hay tím nhạt, có tràng hoa dạng bướm, xếp thành chuỳ ở nách lá. Quả đậu dẹt, có 3 - 7 hạt. Hạt hình trứng, nhẵn bóng, to bằng hạt đậu gạo, màu đỏ chói, có một đốm đen rộng bao quanh tễ.
Loài cây liên nhiệt đới, mọc hoang trong các rừng còi, rừng thưa vùng núi thấp đến trung du và đồng bằng. Ở nước ta, thường gặp nhiều ở các tỉnh miền Trung từ Thừa Thiên - Huế đến Ninh Thuận. Cũng thường đuợc trồng làm cảnh và làm Thu*c ở nhiều nơi. Trồng đuợc 3 tháng đã có thể thu hoạch dây lá. Cắt các đoạn dây mang lá, quấn lại thành bó rồi phơi khô. Thu hái rễ vào mùa xuân - hè; thu hoạch quả vào mùa thu rồi phơi khô, đập lấy hạt.
Lá, rễ cam thảo dây chứa một chất ngọt tương tự glycyrrhizin của cam thảo, nhưng vị khó chịu và đắng. hạt chứa một albumin độc (toxalbumin) là abrin có cấu trúc và tính chất gần với ricin trong hạt thầu dầu; 1/2mg abrin đã là liều tử cho người trưởng thành; còn có các chất khác như l. abrin, abralin, precatorin, hemaglutinin, trigonellin. n-dimethyl tryptophan methyl este, hypaphorin, một số sterol như stigmasterol, brassicasterol, men ureaza. vỏ hạt chứa chất màu là abarnin (anthocyan monoglycosid).
Người ta thường dùng dây lá cam thảo dây để điều hoà các vị Thu*c khác, dùng chữa ho, giải cảm, trị hoàng đản do viêm gan siêu vi trùng. liều dùng 8 - 16g, sắc uống. có thể dùng thay cam thảo bắc. thường phối hợp với các vị Thu*c khác. người ta còn dùng lá cam thảo dây nhai với muối và nuốt nước để chữa chứng đánh trống ngực. hạt chỉ dùng ngoài để sát trùng, tiêu viêm, làm mụn nhọt chóng vỡ mủ (giã nhỏ đắp); tốt nhất là trị vú sưng đau do tắc tia sữa: người ta lấy một lượng vừa đủ, giã nát, nghiền thành bột, trộn với dầu mè bôi và đắp ngoài.
Ở Đông Phi, có nơi dùng lá trị rắn độc cắn. Ở Inđônêxia, người ta dùng dây lá làm Thu*c chữa đau bụng, trị bệnh spru (ỉa chảy vùng nhiệt đới). Ở Philippin, lá và rễ sắc chữa ho, chữa đau mắt hột mạn tính.
Dây lá, rễ cam thảo dây có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu. hạt có vị đắng, rất độc, có tác dụng thông cửu khiếu, sát trùng, tiêu viêm. abrin là một albumin độc; khi vào cơ thể, nó sẽ tạo ra một kháng thể gây vón hồng cầu dễ dàng, làm phù tẩy kết mạc và gây hại tới giác mạc một cách vĩnh viễn.
Rễ dùng thay cam thảo vì có tính làm dịu. hạt dùng để tẩy nhưng độc nên không dùng nhiều. ở ân độ, người ta dùng hạt làm Thu*c tẩy, gây nôn và K*ch d*c, dùng trong những rối loạn thần kinh và ngộ độc của súc vật. người ta cũng dùng bột làm Thu*c đạn gây sẩy thai. rễ cũng dùng gây nôn và chống độc.
Khi bị ngộ độc hạt cam thảo dây, có các triệu chứng như nôn mửa, viêm dạ dày - tiểu trường, co giật, xuất huyết nhiều, giảm huyết áp, dùng 50 - 60g cam thảo sắc uống, hoặc hoà thêm bột đậu xanh nghiền sống, uống nhiều càng tốt.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
bên dòng sông mẹ cà phê làm khởi phát cơn đau nửa đầu cách cách tăng cân nhanh cam thảo cam thảo dây cơn đau cơn đau nửa đầu đau nửa đầu dòng sông giúp nhau đi qua lỗi lầm khởi phát làm sao lỗi lầm nơi đầu sóng nửa đầu tăng cân tăng cân nhanh tổ quốc tổ quốc nơi đầu sóng