Thông tin y học tiếng Việt hôm nay

Thông tin y học tiếng Việt

Cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất

Cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất ( gọi tắt là tim nhanh trên thất - TNTT ) là một thuật ngữ rộng bao hàm nhiều loại rối loạn nhịp nhanh có cơ chế và nguồn gốc khác nhau.

ĐẠI CƯƠNG

Cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất ( gọi tắt là tim nhanh trên thất - TNTT ) là một thuật ngữ rộng bao hàm nhiều loại rối loạn nhịp nhanh có cơ chế và nguồn gốc khác nhau. Trước đây một cơn tim nhanh QRS hẹp, đều, xuất hiện đột ngột ở một người không có bệnh tim thực tổn được gọi là bệnh Bouveret.Ngày nay với những tiến bộ của thăm dò điện S*nh l* học người ta đã hiểu được các cơ chế gây ra các cơn nhịp nhanh và từ đó đưa ra các cách phân loại cơn nhịp nhanh trên thất cũng như phương pháp điều trị  hiệu quả nhất.

CƠ CHẾ CỦA TIM NHANH TRÊN THẤT

Có ba cơ chế chính

Vòng vào lại

Tăng tính tự động.

Hoạt động cò nẩy.

Do vòng vào lại

Vòng vào lại là một vòng khép kín, trong đó xung động di chuyển liên tục để tạo ra và duy trì cơn tim nhanh.

Điều kiện để hình thành vòng vào lại : vòng vào lại có 2 nhánh có tốc độ dẫn truyền và thời gian trơ khác nhau:

Một nhánh có tốc độ dẫn truyền nhanh nhưng thời gian trơ kéo dài.

Một nhánh có tốc độ dẫn truyền chậm nhưng thời gian trơ ngắn.

Chính sự khác nhau về thời gian trơ và tốc độ dẫn truyền này của 2 nhánh là điều kiện thuận lợi để hình thành vòng vào lại.

Loại loạn nhịp này thường được khởi phát bằng 1 ngoại tâm thu (NTT) sớm. Do NTT đến sớm, khi ấy 1 nhánh của vòng vào lại có thời gian trơ ngắn (ra khỏi thời kỳ trơ ) nên xung động đi qua được, còn nhánh kia có thời gian trơ dài (chưa ra khỏi thời kỳ trơ) nên xung động không đi vào nhánh đó được. Khi xung động lan truyền hết nhánh có thời gian trơ ngắn thì nhánh có thời gian trơ kéo dài đã đủ thời gian để tái cực tức ra khỏi thời kỳ trơ và có thể dẫn truyền được xung động vì vậy xung động từ nhánh có thời gian trơ ngắn lan truyền ngược lại nhánh có thời gian trơ kéo dài (khi đó đã ra khỏi thời gian trơ) rồi lại quay trở lại đầu kia của nhánh có thời gian trơ ngắn tạo thành một vòng vào lại.

Sóng xung động cứ di chuyển liên tục trong vòng vào lại ấy nên tạo ra và duy trì cơn tim nhanh.

Do tăng tính tự động

Do 1 tế bào hay 1 nhóm tế bào thay đổi tăng tính tự động, phát xung động sớm hơn nên chiếm quyền chỉ huy tim đập theo tần số của mình và tạo ra cơn tim nhanh.

Trong trường hợp này cơn tim nhanh còn được gọi là do ổ ngoại vi.

Hoạt động cò nẩy

CÁC LOẠI TIM NHANH TRÊN THẤT

TNTT do vòng vào lại, không có đường dẫn truyền phụ nhĩ-thất: Vòng vào lại không có sự tham gia của thất. Có 3 loại hay gặp:

Tim nhanh vào lại nút xoang.

Tim nhanh vào lại cơ nhĩ.

Tim nhanh vào lại nút nhĩ thất.

Tim nhanh trên thất do vòng vào lại với đường dẫn truyền phụ nhĩ - thất:

Hội chứng W.P.W.

Tim nhanh vào lại nhĩ-thất chiều xuôi (orthodromic).

Tim nhanh vào lại nhĩ-thất theo chiều ngược (antidromic).

Trong W.P.W ẩn (concealed condaction).

TNTT do ổ ngoại vị: Chủ yếu là ổ ngoại vị nhĩ và ổ ngoại vị bộ nối.

Trong các loại TNTT đã đề cập trên, hay gặp là: tim nhanh vào lại nút nhĩ thất, tim nhanh vào lại nhĩ thất với đường dãn truyền phụ nhĩ thất và tim nhanh do ổ ngoại vị nhĩ.

TIM NHANH VÀO LẠI NÚT NHĨ THẤT

Là hình thái thường gặp nhất của TNTT ở người lớn, chiếm 50-60% các trường hợp TNTT vào cấp cứu. Ở trẻ em  nó đứng thứ 2 sau tim nhanh vào lại nhĩ thất với đường dẫn truyền phụ nhĩ thất (trong hội chứng W.P.W).

TNTT xảy ra do có đường dẫn truyền kép chức năng ở trong hay cạnh nút nhĩ thất, mà các đường dẫn truyền này có các đặc điểm đã mô tả ở trên để có thể tạo ra 1 vòng vào lại:

Đường dẫn truyền chậm, có thời gian trơ ngắn.

Đường dẫn truyền nhanh, có thời gian trơ dài hơn.

Bình thường ở nhịp xoang xung động từ nút xoang truyền ra cơ nhĩ rồi vào nút nhĩ thất, cả 2 đường dẫn truyền đi tiếp xuống bó his rồi tới thất để khử cực thất. Trong trường hợp có ngoại tâm thu nhĩ khá sớm, xung động tới nút nhĩ thất, do nhánh dẫn truyền nhanh có thời gian trơ dài, chưa kịp tái cực trở lại để có thể dẫn truyền xung động của NTT nhĩ sớm này, nên xung động không đi vào nhánh này mà chỉ đi vào nhánh có thời gian trơ ngắn (nên đã kịp tái cực và có khả năng dẫn truyền xung động). Xung động được dẫn truyền chậm chạp trong nhánh này tới đầu dưới (nơi nối vào bó his và nhánh dẫn truyền nhanh) một mặt nó đi theo bó his xuống khử cực thất, mặt khác do nhánh dẫn truyền nhanh lúc này đã ra khỏi thời kỳ trơ nên xung động từ nhánh dẫn truyền chậm đi vào và đi ngược trở lại nhĩ, đồng thời cũng đi vào lại đầu trên của nhánh dẫn truyền chậm, và như vậy hình thành 1 vòng vào lại và tạo ra cơn tim nhanh vào lại nút nhĩ thất, khoảng 90% các trường hợp vòng vào lại đi theo hướng chậm - nhanh như đã mô tả ở trên. 10% còn lại xung động đi theo hướng nhanh - chậm.

Các dấu hiệu điện tâm đồ của TNTT vào lại nút nhĩ thất

Cơn tim nhanh thường khởi phát và kết thúc đột ngột, cơn có thể từ vài giây vài phút đến nhiều giờ, nhiều ngày.

Cơn thường được khởi phát bởi một NTT nhĩ sớm với khoảng P’R’ kéo dài.

Tần số tim thường từ 140 - 220 nhịp/phút, đều.

P- RS có hình thái của nhịp bộ nối:

P âm ở DII ,  DIII , aVF.

Sóng P thường chồng lên phức bộ QRS và bị che giấu bởi phức bộ QRS (không thấy sóng P) hoặc đi sau phức bộ QRS, hiếm hơn P có thể đi trước QRS.

Phức bộ QRS có thể có hình dạng bình thường (hẹp) hoặc dãn rộng do dẫn truyền lệch hướng, hoặc blốc nhánh có từ trước.

Sóng P trong 1 số trường hợp nhô ra ở phần cuối của phức bộ QRS tạo ra hình ảnh “giả sóng r’” ở V1 và “giả sóng s’” ở DII , DIII , aVF, làm trông giống hình ảnh blốc nhánh phải không hoàn toàn.

Chẩn đoán phân biệt

Nhịp nhanh xoang, tim nhanh vào lại nút xoang.

Tim nhanh nhĩ.

Tim nhanh vào lại nhĩ thất với đường dẫn truyền phụ.

TIM NHANH VÀO LẠI NHĨ THẤT VỚI ĐƯỜNG DẪN TRUYỀN PHỤ

TNTT rất thường gặp ở bệnh nhân có đường dẫn truyền phụ nhĩ thất như trong hội chứng W.P.W. 

Cơ chế cơn tim nhanh là do vòng vào lại nhĩ-thất có sự tham gia của : cơ nhĩ, bộ nối nhĩ-thất (nút nhĩ-thất-His) - cơ thất - và đường dẫn truyền phụ (cầu Kent). Như vậy cơn tim nhanh này có sự tham gia của thất vào vòng vào lại.

Tim nhanh vào lại nhĩ thất chiều xuôi (orthodromic) trong trường hợp này xung động đi từ nhĩ qua nút nhĩ thất-bó His, xuống thất rồi ngược trở lại nhĩ qua đường dẫn truyền phụ, rồi từ nhĩ lại đi  xuống thất qua nút nhĩ thất - His: do xung động đi xuống thất qua đường dẫn truyền bình thường nên cơn tim nhanh có phức bộ QRS hẹp bình thường.

Tim nhanh vào lại nhĩ-thất chiều ngược (antidrromic) ở đây xung động trong vòng vào lại đi theo chiều từ cơ nhĩ qua đường dẫn truyền phụ xuống thất rồi từ thất đi ngược trở lại qua His - nút  nhĩ thất lên nhĩ. Do hướng đi của xung động từ nhĩ xuống thất qua đường dẫn truyền phụ nên sự khử cực thất bất thường, chậm chạp nên QRS trong cơn tim nhanh dãn rộng.

Trong W.P.W có biểu hiện trên ĐTĐ thì có thể có 2 kiểu cơn tim nhanh này nhưng trên thực tế thường gặp loại vòng vào lại theo chiều xuôi.

Trong W.P.W ẩn do đường dẫn truyền phụ chỉ dẫn truyền 1 chiều từ thất lên nhĩ nên chỉ có cơn tim nhanh vào lại chiều xuôi ĐTĐ ngoài cơn hoàn toàn bình thường.

Các dấu hiệu điện tâm đồ của cơn tim nhanh vào lại nhĩ thất với đường dẫn truyền phụ

Khởi phát và kết thúc cơn rất đột ngột. Cơn kéo dài từ vài phút tới nhiều giờ, nhiều ngày.

Cơn có thể được khởi phát cả bởi NTT nhĩ và NTT thất sớm.

Tần số tim thường nhanh 140 - 250 c/phút và đều.

Sóng P: thường có hình dạng khác P cơ sở, vị trí thường đi sau QRS với RP < Pr, thường chồng lên sóng T, làm cho sóng T có móc, có khía ở sườn.

Phức bộ QRS:  

Có thể hẹp bình thường trong TNTT do vòng vào lại chiều xuôi.

Dãn rộng trong TNTT do vòng vào lại chiều ngược.

TIM NHANH NHĨ DO Ổ NGOẠI VỊ

Thường hay gặp trong những trường hợp ngộ độc digitalis.

Hay có blốc dẫn truyền nhĩ thất đi kèm.

Những dấu hiệu ĐTĐ của tim nhanh nhĩ

Sóng P’ có hình dạng khác sóng P cơ sở lúc nhịp xoang.

Tần số nhĩ (P’) thường từ 140-250 CK/phút.

Khoảng P’R’ có thể ngắn, bình thường hoặc dài.

Phức bộ QRS : hình dạng thường hẹp bình thường.

Thường hay có blốc nhĩ thất đi kèm : có thể 2/1 ; 3/1.

XỬ TRÍ CẤP CỨU

TNTT vào lại nút nhĩ thất

Do nút nhĩ thất có nhiều nhánh của dây thần kinh phế vị, do đó cắt cơn bằng cách gây cường phế vị làm chậm dẫn truyền, tăng thời gian trơ làm phá vỡ vòng vào lại và cắt được cơn tim nhanh.

Các tế bào nút nhĩ thất và nút xoang khi khử cực không có giai đoạn O (do dòng Na nhanh) ở đường cong điện thế hoạt động mà sự khử cực dựa vào dòng Ca chậm và Na chậm vào trong tế bào (giai đoạn 2) nên các Thu*c chẹn Canxi (nhóm 4) có tác dụng tốt để cắt và phòng cơn.

Điều trị cắt cơn tim nhanh.

Các thủ thuật  (không dùng Thu*c)

Các thủ thuật cường phế vị.

Nghiệm pháp valsalva: Nuốt miếng thức ăn to, uống miếng nước lạnh lớn, cúi gập người thấp đầu kẹp giữa 2 đầu gối, úp mặt vào chậu nước lạnh.

Ấn nhãn cầu: Bệnh nhân nhắm mắt, đặt 2 ngón tay cái hoặc 3 đầu ngón tay trỏ, giữa, nhẫn lên hố mắt mỗi bên ấn từ từ tăng dần. Trong khi ấn theo dõi nhịp tim trên monitoring nếu cơn tim nhanh ngừng thì dừng ấn ngay. Khi cơn tim nhanh ngừng sẽ có đoạn ngừng tim ngắn sau đó có thoát bộ nối hoặc nhịp xoang trở lại. Không dùng thủ thuật này nếu bệnh nhân có tiền sử bệnh võng mạc, tăng nhãn áp....

Xoa xoang cảnh: Cần thận trọng:

Không thực hiện nếu bệnh nhân có ngất khi xoa xoang cảnh.

Có tiền sử tai biến mạch máu não thoáng qua.

Bệnh nhân nằm ngửa, xoa nhẹ nhàng từng bên từ 10-20s, sau đó chuyển sang bên kia.

Không nên tiến hành xoa đồng thời hai bên.

Cần theo dõi điện tâm đồ hoặc nghe tần số tim liên tục nếu không có monitoring vì khi cơn tim nhanh ngừng lại thì cần dừng ngay xoa xoang cảnh nếu không nhịp chậm quá mức sẽ dẫn đến ngất.

Tác dụng của xoa xoang cảnh, ấn nhãn cầu sẽ tăng lên nếu bệnh nhân đã được dùng digitalis trước đó.

Tạo nhịp

Máy tạo nhịp phát ra một loạt các xung động với mục đích một trong các xung động đó xâm nhập được vào vòng vào lại và như vậy sẽ phá vỡ vòng vào lại để cắt được cơn tim nhanh.

Tạo nhịp cắt cơn tim nhanh vào lại nút nhĩ thất có thể:

Tạo nhịp vượt tần số.

Tạo nhịp dưới tần số.

Tạo nhịp qua thực quản hoặc trong buồng tim.

Thường được chỉ định khi các biện pháp khác không hiệu quả.

Sốc điện cấp cứu

Chỉ định :

Các trường hợp cơn tim nhanh gây tụt HA, đau thắt ngực hoặc suy tim: cần phải cắt cơn ngay.

Các Thu*c adenosine, verapamil có chống chỉ định hoặc không có hiệu quả.

Các biện pháp và Thu*c khác không hiệu quả.

Liều lượng : bắt đầu 50 - 100J.

Sốc đồng bộ.

Không sốc điện nếu có

Nhiễm độc digitalis.

Tim nhanh nhĩ bị blốc nghi do ngộ độc digitalis.

Các Thu*c cắt cơn

Adenosin: Là một Thu*c có tác dụng gây cường phế vị mạnh, làm chậm dẫn truyền, gây blốc ở nút nhĩ thất làm phá vỡ được vòng vào lại cắt được cơn tim nhanh.

Thu*c có thời gian bán huỷ rất ngắn < 10 giây và thải trừ hoàn toàn khỏi huyết tương trong 30 giây nên phải tiêm tĩnh mạch.

Thu*c có thể gây ngừng tim ngắn vài giây hoặc nhịp chậm.

Tác dụng phụ: Gây cảm giác bồn chồn khó chịu.

Liều lượng:

Tiêm tĩnh mạch 1 ống - 6mg.

Nếu không kết quả sau 2-3 phút tiêm liều thứ 2 hoặc thứ 3 là 12mg.

Nên chuẩn bị atropin để đề phòng nhịp quá chậm (0,5-1mg tiêm TM).

Chống chỉ định:

Hội chứng suy nút xoang.

Dùng các Thu*c ức chế nút xoang hoặc nút Tawara.

Chống chỉ định tuyệt đối ở bệnh nhân hen phế quản.

Nếu sau khi tiêm nếu bệnh nhân mất tri giác cần đấm mạnh vào vùng trước xương ức, bệnh nhân sẽ tỉnh lại.

Verapamil (Isoptin - ống 5mg): Tiêm tĩnh mạch chậm 2,5mg/lần, sau đó nếu cần thiết có thể tiêm thêm các liều 2,5mg/lần khi tình trạng huyết động ổn định.

Verapamil làm giảm sức co bóp cơ tim nên chỉ dùng cho những trường hợp chức năng tim tốt và huyết động ổn định.

Những trường hợp chức năng thất trái giảm có thể dùng Diltiazem liều 0,25mg/kg, tĩnh mạch chậm. Thu*c này ức chế sự co bóp cơ tim ít hơn Verapamil. Trường hợp dùng liều trên mà không cắt được cơn có thể cho liều 0,35mg/kg sau đó truyền TM 5-15mg/giờ.

Digitalis: Là Thu*c rất hiệu qủa và an toàn nhưng phải cần vài giờ để có tác dụng.

Liều lượng: Digoxin 0,5mg; Isolanide, Cedilanide 0,4mg tiêm tĩnh mạch, sau 4-6 giờ có thể cho lại nếu cần hoặc sau đó 0,25 - 0,125mg cứ 2-4 giờ/lần. Tổng liều 1-1,25mg/ngày.

Digitalis tác động lên sự vận chuyển của các Ion gây cường phế vị nên làm kéo dài thời kỳ trơ và giảm tính dẫn truyền ở nút nhĩ thất dẫn tới phá vỡ vòng vào lại của cơn tim nhanh.

Với trẻ nhỏ nên dùng digitalis trước tiên nếu như các thủ thuật cường phế vị thất bại.

Nên dùng digitalis trong trường hợp cơn tim nhanh có kèm suy tim

Amiodarone (biệt dược: Cordarone, Sedacrone... ống 150mg).

Tiêm tĩnh mạch chậm: Trong trường hợp cần cắt cơn nhanh, nhưng chỉ nên dùng khi chức năng tim còn tốt, huyết động ổn định. Pha 1 ống (150mg) 20ml huyết thanh đẳng trương tiêm tĩnh mạch chậm trong 10 phút.

Truyền tĩnh mạch: Ở người lớn thường dùng 2 ống (300mg) pha trong  250- 300ml huyết thanh đẳng trương truyền TM nhanh trong khoảng 20 phút đến 2 giờ. Không nên pha nồng độ thấp và truyền chậm vì hiệu quả cắt cơn thấp.

Tuy ít làm giảm sức co bóp cơ tim nhưng do dùng tiêm tĩnh mạch chậm hoặc truyền nhanh nên có 1 số trường hợp hạ huyết áp nên cần theo dõi huyết động khi sử dụng Cordarone đường tĩnh mạch.

Chẹn beta giao cảm: Chỉ dùng vào hàng ưu tiên thấp, thường dùng Esmolol là một Thu*c chẹn bêta giao cảm có tác dụng ngắn, liều lượng TM : 500mg/kg trong 1-2 phút.

Thu*c uống: Tác dụng chậm:

Thu*c chẹn dòng canxi.

Verapamil (Isoptine) 40mg : 2-3 viên/ngày.

Diltiazem 60mg:          2-3 viên/ngày.

Digoxin 1/4mg      : 1-3 viên/ngày.

Propranolol 40mg :  2-4 viên/ngày

Cordarone 200mg :  600-800mg/ngày.

Dự phòng tái phát cơn

Những trường hợp cơn có biểu hiện lâm sàng, rối loạn huyết động nặng nề, cơn quá mau, đã bị nhiều cơn mà bệnh nhân không tự dùng các thủ thuật để cắt cơn được thì phải dùng Thu*c dự phòng.

Digitalis: Là thứ Thu*c thứ nhất được lựa chọn vì tiện lợi, hiệu quả tốt và rẻ tiền.

Liều lượng: Digoxin 1/4mg - 1v/ngày x 3-4 ngày/tuần.

Verapamil (Isoptin): 40mg - 1viên/ngày.

Có thể dùng đơn độc hoặc kết hợp với Digitalis. Nếu dùng kết hợp với digitalis phải giảm liều digitalis vì Verapamil làm tăng nồng độ của digitalis

Diltiazem: 60mg : 1-2v/ngày.

Các Thu*c chẹn beta:

Sotalol 80mg : 1v/ngày.

Amiodarone viên 200mg:  1-2 viên/ngày.

Các Thu*c nhóm 1C: Propafenone (Rythmol : 200mg; Rythmonorm viên 150mg) 150-200mg/ngày; Flecainide viên 100mg : 1viên/ngày.

Thăm dò điện S*nh l* kích thích có chương trình để tạo cơn và cắt cơn, đồng thời thử Thu*c để lựa chọn Thu*c có hiệu quả dùng phòng tái phát cơn lâu dài.

Điều trị triệt để bằng cắt bỏ đường dẫn truyền chậm bằng năng lượng sóng có tần số radio qua catheter là phương pháp điều trị rất hiệu quả, an toàn.

Điều trị tim nhanh vào lại nhĩ - thất có sự tham gia của đường dẫn truyền phụ

Vòng vào lại có sự tham gia của cả bộ nối (nút nhĩ thất - bó His) và đường dẫn truyền phụ (cần Kent) nên các biện pháp điều trị nhằm tác động phá vỡ vòng vào lại ở một trong hai vị trí này.

Trước hết các biện pháp điều trị nhằm phá vỡ vòng vào lại nhĩ thất tại vị trí nút nhĩ thất: đó là các biện pháp như trong điều trị tim nhanh vào lại nút nhĩ thất đã trình bày ở trên.

Các Thu*c tác động lên đường dẫn truyền phụ: làm kéo dài thời kỳ trơ, làm chậm dẫn truyền xung động ở đường phụ và phá vỡ vòng vào lại.

Các Thu*c: nhóm 1C: Flecainide, Propafenone hoặc nhóm 1A : Quinidine.

Lưu ý: Các Thu*c digitalis, Verapamil do làm rút ngắn thời kỳ trơ của đường phụ và kéo dài thời kỳ trơ, tăng mức blốc ở nút nhĩ thất nên nếu sau khi dùng Thu*c nếu xuất hiện rung nhĩ thường rất nguy hiểm vì các xung động của rung nhĩ sẽ dễ dàng đi qua đường phụ xuống thất dẫn tới tần số thất rất nhanh và có thể gây ra rung thất vì vậy cần phải thận trọng ở những bệnh nhân này.

Loại bỏ đường dẫn truyền phụ bằng năng lượng sóng có tần số radio qua catheter: đây là phưong pháp điều trị triệt để, hiệu quả và an toàn.

Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/vietnam/con-nhip-nhanh-kich-phat-tren-that/)

Tin cùng nội dung

  • Cháu 15 tuổi, cao 1m45 mà nặng tới 40 kg. Đùi, mông và bắp chân cháu rất to, bạn bè thường trêu là béo lùn nhưng mẹ cháu lại an ủi là không béo.
  • (Mangyte) - Tôi vừa đọc bài báo: “Nam sinh Tu vong vì tự sướng 42 lần trong 1 đêm” mà rùng mình…
  • Em thường sử dụng Thuốc nhuộm tóc và da đầu em rất hay bị dị ứng.
  • Tính khí thất thường là một biểu hiện khá bình thường ở trẻ em, nhưng đôi khi sự thất thường ấy lại là nguyên nhân khiến bầu không khí gia đình thêm căng thẳng. Liệu đứa trẻ ấy có hư và cha mẹ chúng nên làm gì?
  • Nhồi máu cơ tim (còn được gọi là cơn đau tim) xảy ra khi một phần của cơ tim bị phá hủy hoặc ch*t vì nó không nhận được đủ oxy. Nhồi máu cơ tim thường có thể điều trị được khi được chẩn đoán sớm. Tuy nhiên, nếu không điều trị nhồi máu cơ tim có thể gây Tu vong.
  • Chứng đau đầu không đơn giản là do tinh thần căng thẳng, hay do cảm cúm. Dọn dẹp nhà cửa, hay ngủ muộn cũng có thể gây ra đau đầu.
  • Nếu bạn cũng giống như hầu hết các phụ nữ khác, cơn đau trong lúc chuyển dạ và sinh nở sẽ là một trong những điều làm bạn lo lắng khi dự định có con. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì hầu hết phụ nữ đều bị đau khi sinh.
  • Chuyển dạ là quá trình giúp tống thai và nhau ra khỏi tử cung và bắt đầu một cuộc sống mới bên ngoài tử cung của bé. Đôi khi, chuyển dạ không tự khởi phát được, trong trường hợp này các bác sĩ phải sử dụng Thu*c giúp khởi động quá trình chuyển dạ để người mẹ có thể sinh ngả *m đ*o. Quá trình này được gọi là “khởi phát chuyển dạ” hay còn gọi là giục sanh.
  • Sau phẫu thuật, trẻ thường gặp vấn đề với các cơn đau nhưng thật may là có nhiều phương pháp để làm dịu các cơn đau này. Vậy phương pháp nào là hiệu quả, tốt nhất cho trẻ
  • Làm thế nào để bé có thể chuẩn bị được tin thần, và sẵn sàng cho việc phải thực hiện thủ thuật y khoa
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY