Cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất ( gọi tắt là tim nhanh trên thất - TNTT ) là một thuật ngữ rộng bao hàm nhiều loại rối loạn nhịp nhanh có cơ chế và nguồn gốc khác nhau. Trước đây một cơn tim nhanh QRS hẹp, đều, xuất hiện đột ngột ở một người không có bệnh tim thực tổn được gọi là bệnh Bouveret.Ngày nay với những tiến bộ của thăm dò điện S*nh l* học người ta đã hiểu được các cơ chế gây ra các cơn nhịp nhanh và từ đó đưa ra các cách phân loại cơn nhịp nhanh trên thất cũng như phương pháp điều trị hiệu quả nhất.
Vòng vào lại là một vòng khép kín, trong đó xung động di chuyển liên tục để tạo ra và duy trì cơn tim nhanh.
Điều kiện để hình thành vòng vào lại : vòng vào lại có 2 nhánh có tốc độ dẫn truyền và thời gian trơ khác nhau:
Chính sự khác nhau về thời gian trơ và tốc độ dẫn truyền này của 2 nhánh là điều kiện thuận lợi để hình thành vòng vào lại.
Loại loạn nhịp này thường được khởi phát bằng 1 ngoại tâm thu (NTT) sớm. Do NTT đến sớm, khi ấy 1 nhánh của vòng vào lại có thời gian trơ ngắn (ra khỏi thời kỳ trơ ) nên xung động đi qua được, còn nhánh kia có thời gian trơ dài (chưa ra khỏi thời kỳ trơ) nên xung động không đi vào nhánh đó được. Khi xung động lan truyền hết nhánh có thời gian trơ ngắn thì nhánh có thời gian trơ kéo dài đã đủ thời gian để tái cực tức ra khỏi thời kỳ trơ và có thể dẫn truyền được xung động vì vậy xung động từ nhánh có thời gian trơ ngắn lan truyền ngược lại nhánh có thời gian trơ kéo dài (khi đó đã ra khỏi thời gian trơ) rồi lại quay trở lại đầu kia của nhánh có thời gian trơ ngắn tạo thành một vòng vào lại.
Do 1 tế bào hay 1 nhóm tế bào thay đổi tăng tính tự động, phát xung động sớm hơn nên chiếm quyền chỉ huy tim đập theo tần số của mình và tạo ra cơn tim nhanh.
TNTT do vòng vào lại, không có đường dẫn truyền phụ nhĩ-thất: Vòng vào lại không có sự tham gia của thất. Có 3 loại hay gặp:
Trong các loại TNTT đã đề cập trên, hay gặp là: tim nhanh vào lại nút nhĩ thất, tim nhanh vào lại nhĩ thất với đường dãn truyền phụ nhĩ thất và tim nhanh do ổ ngoại vị nhĩ.
Là hình thái thường gặp nhất của TNTT ở người lớn, chiếm 50-60% các trường hợp TNTT vào cấp cứu. Ở trẻ em nó đứng thứ 2 sau tim nhanh vào lại nhĩ thất với đường dẫn truyền phụ nhĩ thất (trong hội chứng W.P.W).
TNTT xảy ra do có đường dẫn truyền kép chức năng ở trong hay cạnh nút nhĩ thất, mà các đường dẫn truyền này có các đặc điểm đã mô tả ở trên để có thể tạo ra 1 vòng vào lại:
Bình thường ở nhịp xoang xung động từ nút xoang truyền ra cơ nhĩ rồi vào nút nhĩ thất, cả 2 đường dẫn truyền đi tiếp xuống bó his rồi tới thất để khử cực thất. Trong trường hợp có ngoại tâm thu nhĩ khá sớm, xung động tới nút nhĩ thất, do nhánh dẫn truyền nhanh có thời gian trơ dài, chưa kịp tái cực trở lại để có thể dẫn truyền xung động của NTT nhĩ sớm này, nên xung động không đi vào nhánh này mà chỉ đi vào nhánh có thời gian trơ ngắn (nên đã kịp tái cực và có khả năng dẫn truyền xung động). Xung động được dẫn truyền chậm chạp trong nhánh này tới đầu dưới (nơi nối vào bó his và nhánh dẫn truyền nhanh) một mặt nó đi theo bó his xuống khử cực thất, mặt khác do nhánh dẫn truyền nhanh lúc này đã ra khỏi thời kỳ trơ nên xung động từ nhánh dẫn truyền chậm đi vào và đi ngược trở lại nhĩ, đồng thời cũng đi vào lại đầu trên của nhánh dẫn truyền chậm, và như vậy hình thành 1 vòng vào lại và tạo ra cơn tim nhanh vào lại nút nhĩ thất, khoảng 90% các trường hợp vòng vào lại đi theo hướng chậm - nhanh như đã mô tả ở trên. 10% còn lại xung động đi theo hướng nhanh - chậm.
Cơn tim nhanh thường khởi phát và kết thúc đột ngột, cơn có thể từ vài giây vài phút đến nhiều giờ, nhiều ngày.
Sóng P thường chồng lên phức bộ QRS và bị che giấu bởi phức bộ QRS (không thấy sóng P) hoặc đi sau phức bộ QRS, hiếm hơn P có thể đi trước QRS.
Phức bộ QRS có thể có hình dạng bình thường (hẹp) hoặc dãn rộng do dẫn truyền lệch hướng, hoặc blốc nhánh có từ trước.
Sóng P trong 1 số trường hợp nhô ra ở phần cuối của phức bộ QRS tạo ra hình ảnh “giả sóng r’” ở V1 và “giả sóng s’” ở DII , DIII , aVF, làm trông giống hình ảnh blốc nhánh phải không hoàn toàn.
Cơ chế cơn tim nhanh là do vòng vào lại nhĩ-thất có sự tham gia của : cơ nhĩ, bộ nối nhĩ-thất (nút nhĩ-thất-His) - cơ thất - và đường dẫn truyền phụ (cầu Kent). Như vậy cơn tim nhanh này có sự tham gia của thất vào vòng vào lại.
Tim nhanh vào lại nhĩ thất chiều xuôi (orthodromic) trong trường hợp này xung động đi từ nhĩ qua nút nhĩ thất-bó His, xuống thất rồi ngược trở lại nhĩ qua đường dẫn truyền phụ, rồi từ nhĩ lại đi xuống thất qua nút nhĩ thất - His: do xung động đi xuống thất qua đường dẫn truyền bình thường nên cơn tim nhanh có phức bộ QRS hẹp bình thường.
Tim nhanh vào lại nhĩ-thất chiều ngược (antidrromic) ở đây xung động trong vòng vào lại đi theo chiều từ cơ nhĩ qua đường dẫn truyền phụ xuống thất rồi từ thất đi ngược trở lại qua His - nút nhĩ thất lên nhĩ. Do hướng đi của xung động từ nhĩ xuống thất qua đường dẫn truyền phụ nên sự khử cực thất bất thường, chậm chạp nên QRS trong cơn tim nhanh dãn rộng.
Trong W.P.W có biểu hiện trên ĐTĐ thì có thể có 2 kiểu cơn tim nhanh này nhưng trên thực tế thường gặp loại vòng vào lại theo chiều xuôi.
Trong W.P.W ẩn do đường dẫn truyền phụ chỉ dẫn truyền 1 chiều từ thất lên nhĩ nên chỉ có cơn tim nhanh vào lại chiều xuôi ĐTĐ ngoài cơn hoàn toàn bình thường.
Sóng P: thường có hình dạng khác P cơ sở, vị trí thường đi sau QRS với RP < Pr, thường chồng lên sóng T, làm cho sóng T có móc, có khía ở sườn.
Do nút nhĩ thất có nhiều nhánh của dây thần kinh phế vị, do đó cắt cơn bằng cách gây cường phế vị làm chậm dẫn truyền, tăng thời gian trơ làm phá vỡ vòng vào lại và cắt được cơn tim nhanh.
Các tế bào nút nhĩ thất và nút xoang khi khử cực không có giai đoạn O (do dòng Na nhanh) ở đường cong điện thế hoạt động mà sự khử cực dựa vào dòng Ca chậm và Na chậm vào trong tế bào (giai đoạn 2) nên các Thu*c chẹn Canxi (nhóm 4) có tác dụng tốt để cắt và phòng cơn.
Nghiệm pháp valsalva: Nuốt miếng thức ăn to, uống miếng nước lạnh lớn, cúi gập người thấp đầu kẹp giữa 2 đầu gối, úp mặt vào chậu nước lạnh.
Ấn nhãn cầu: Bệnh nhân nhắm mắt, đặt 2 ngón tay cái hoặc 3 đầu ngón tay trỏ, giữa, nhẫn lên hố mắt mỗi bên ấn từ từ tăng dần. Trong khi ấn theo dõi nhịp tim trên monitoring nếu cơn tim nhanh ngừng thì dừng ấn ngay. Khi cơn tim nhanh ngừng sẽ có đoạn ngừng tim ngắn sau đó có thoát bộ nối hoặc nhịp xoang trở lại. Không dùng thủ thuật này nếu bệnh nhân có tiền sử bệnh võng mạc, tăng nhãn áp....
Cần theo dõi điện tâm đồ hoặc nghe tần số tim liên tục nếu không có monitoring vì khi cơn tim nhanh ngừng lại thì cần dừng ngay xoa xoang cảnh nếu không nhịp chậm quá mức sẽ dẫn đến ngất.
Máy tạo nhịp phát ra một loạt các xung động với mục đích một trong các xung động đó xâm nhập được vào vòng vào lại và như vậy sẽ phá vỡ vòng vào lại để cắt được cơn tim nhanh.
Adenosin: Là một Thu*c có tác dụng gây cường phế vị mạnh, làm chậm dẫn truyền, gây blốc ở nút nhĩ thất làm phá vỡ được vòng vào lại cắt được cơn tim nhanh.
Thu*c có thời gian bán huỷ rất ngắn < 10 giây và thải trừ hoàn toàn khỏi huyết tương trong 30 giây nên phải tiêm tĩnh mạch.
Nếu sau khi tiêm nếu bệnh nhân mất tri giác cần đấm mạnh vào vùng trước xương ức, bệnh nhân sẽ tỉnh lại.
Verapamil (Isoptin - ống 5mg): Tiêm tĩnh mạch chậm 2,5mg/lần, sau đó nếu cần thiết có thể tiêm thêm các liều 2,5mg/lần khi tình trạng huyết động ổn định.
Verapamil làm giảm sức co bóp cơ tim nên chỉ dùng cho những trường hợp chức năng tim tốt và huyết động ổn định.
Những trường hợp chức năng thất trái giảm có thể dùng Diltiazem liều 0,25mg/kg, tĩnh mạch chậm. Thu*c này ức chế sự co bóp cơ tim ít hơn Verapamil. Trường hợp dùng liều trên mà không cắt được cơn có thể cho liều 0,35mg/kg sau đó truyền TM 5-15mg/giờ.
Liều lượng: Digoxin 0,5mg; Isolanide, Cedilanide 0,4mg tiêm tĩnh mạch, sau 4-6 giờ có thể cho lại nếu cần hoặc sau đó 0,25 - 0,125mg cứ 2-4 giờ/lần. Tổng liều 1-1,25mg/ngày.
Digitalis tác động lên sự vận chuyển của các Ion gây cường phế vị nên làm kéo dài thời kỳ trơ và giảm tính dẫn truyền ở nút nhĩ thất dẫn tới phá vỡ vòng vào lại của cơn tim nhanh.
Tiêm tĩnh mạch chậm: Trong trường hợp cần cắt cơn nhanh, nhưng chỉ nên dùng khi chức năng tim còn tốt, huyết động ổn định. Pha 1 ống (150mg) 20ml huyết thanh đẳng trương tiêm tĩnh mạch chậm trong 10 phút.
Truyền tĩnh mạch: Ở người lớn thường dùng 2 ống (300mg) pha trong 250- 300ml huyết thanh đẳng trương truyền TM nhanh trong khoảng 20 phút đến 2 giờ. Không nên pha nồng độ thấp và truyền chậm vì hiệu quả cắt cơn thấp.
Tuy ít làm giảm sức co bóp cơ tim nhưng do dùng tiêm tĩnh mạch chậm hoặc truyền nhanh nên có 1 số trường hợp hạ huyết áp nên cần theo dõi huyết động khi sử dụng Cordarone đường tĩnh mạch.
Chẹn beta giao cảm: Chỉ dùng vào hàng ưu tiên thấp, thường dùng Esmolol là một Thu*c chẹn bêta giao cảm có tác dụng ngắn, liều lượng TM : 500mg/kg trong 1-2 phút.
Những trường hợp cơn có biểu hiện lâm sàng, rối loạn huyết động nặng nề, cơn quá mau, đã bị nhiều cơn mà bệnh nhân không tự dùng các thủ thuật để cắt cơn được thì phải dùng Thu*c dự phòng.
Có thể dùng đơn độc hoặc kết hợp với Digitalis. Nếu dùng kết hợp với digitalis phải giảm liều digitalis vì Verapamil làm tăng nồng độ của digitalis
Các Thu*c nhóm 1C: Propafenone (Rythmol : 200mg; Rythmonorm viên 150mg) 150-200mg/ngày; Flecainide viên 100mg : 1viên/ngày.
Thăm dò điện S*nh l* kích thích có chương trình để tạo cơn và cắt cơn, đồng thời thử Thu*c để lựa chọn Thu*c có hiệu quả dùng phòng tái phát cơn lâu dài.
Điều trị triệt để bằng cắt bỏ đường dẫn truyền chậm bằng năng lượng sóng có tần số radio qua catheter là phương pháp điều trị rất hiệu quả, an toàn.
Vòng vào lại có sự tham gia của cả bộ nối (nút nhĩ thất - bó His) và đường dẫn truyền phụ (cần Kent) nên các biện pháp điều trị nhằm tác động phá vỡ vòng vào lại ở một trong hai vị trí này.
Trước hết các biện pháp điều trị nhằm phá vỡ vòng vào lại nhĩ thất tại vị trí nút nhĩ thất: đó là các biện pháp như trong điều trị tim nhanh vào lại nút nhĩ thất đã trình bày ở trên.
Các Thu*c tác động lên đường dẫn truyền phụ: làm kéo dài thời kỳ trơ, làm chậm dẫn truyền xung động ở đường phụ và phá vỡ vòng vào lại.
Lưu ý: Các Thu*c digitalis, Verapamil do làm rút ngắn thời kỳ trơ của đường phụ và kéo dài thời kỳ trơ, tăng mức blốc ở nút nhĩ thất nên nếu sau khi dùng Thu*c nếu xuất hiện rung nhĩ thường rất nguy hiểm vì các xung động của rung nhĩ sẽ dễ dàng đi qua đường phụ xuống thất dẫn tới tần số thất rất nhanh và có thể gây ra rung thất vì vậy cần phải thận trọng ở những bệnh nhân này.
Loại bỏ đường dẫn truyền phụ bằng năng lượng sóng có tần số radio qua catheter: đây là phưong pháp điều trị triệt để, hiệu quả và an toàn.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
bên dòng sông mẹ cà phê làm khởi phát cơn đau nửa đầu cách cách tăng cân nhanh cơn đau cơn đau nửa đầu cơn nhịp nhanh đau nửa đầu dòng sông giúp nhau đi qua lỗi lầm khởi phát kịch phát làm sao lỗi lầm nhịp nhanh nhịp nhanh kịch phát nhịp nhanh kịch phát trên thất nơi đầu sóng nửa đầu tăng cân