Thủy đậu là bệnh truyền nhiễm do virus Varicella Zoster gây ra. Bệnh lây truyền qua đường hô hấp nên thường phát triển thành dịch. Thời tiết chuyển mùa, không khí nóng ẩm tạo điều kiện cho virut gây bệnh phát triển mạnh.
Thủy đậu là bệnh truyền nhiễm
do virus Varicella Zoster gây ra. Bệnh lây truyền qua đường hô hấp nên thường
phát triển thành dịch. Thời tiết chuyển mùa, không khí nóng ẩm tạo điều kiện
cho virut gây bệnh phát triển mạnh. Điều đáng lo ngại là năm nay đã có người
lớn mắc thủy đậu và thường có
biến chứng viêm não nặng, 1 trường hợp đã Tu vong tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM
tháng 1/2013.
Biểu hiện của bệnh thủy đậu
Bệnh thủy đậu trải qua 4 thời
kỳ: Thời kỳ ủ bệnh trung bình từ 14 - 15 ngày. Nếu bệnh nhân suy giảm miễn
dịch, thời kỳ này có thể ngắn hơn. Thời kỳ khởi phát (24-48h), người bệnh sốt
nhẹ, sốt cao ở bệnh nhân suy giảm nhiễm dịch kèm theo mệt mỏi, chán ăn, nhức
đầu và phát ban (tiền thân của bóng nước) là những hồng ban nổi trên nền da
bình thường. Thời kỳ toàn phát (thời kỳ đậu mọc): giảm sốt, nổi bong bóng nước
trên nền da màu hồng, sau đó các nốt phỏng xuất hiện ở da đầu, mặt, lan xuống
thân và tay chân với số lượng nhiều ít khác nhau tùy từng cơ thể. Thời kỳ hồi
phục: sau khoảng 1 tuần, hầu hết bóng nước đóng mày, đa số không để lại sẹo trừ
các bóng nước bị bội nhiễm.
Thủy đậu có các
biến chứng
gì?
Khi các mụn nước vỡ ra và bị
nhiễm khuẩn có thể gây sẹo xấu, đặc biệt, khi bệnh nhân gãi nhiều ở vùng tổn
thương, đây là
biến chứng hay gặp nhất ở trẻ nhỏ.
biến chứng khác thường gặp là
tổn thương thần kinh trung ương bao gồm: viêm não (nhức đầu, co giật, rối loạn
ý thức), tổn thương thần kinh (liệt thần kinh) và hội chứng Reye (kết hợp tổn
thương gan và não, có khả năng gây Tu vong), viêm phổi. Các
biến chứng đặc biệt
nặng có thể xảy ra trên bệnh nhân AIDS, luput, bệnh bạch cầu, bệnh ung thư và
bệnh nhân dùng Thuốc ức chế miễn dịch như corticoid. Trẻ sơ sinh có mẹ bị thủy
đậu ở 3 tháng cuối của thai kỳ sẽ chịu những nguy cơ cao của bệnh. Nếu mẹ phát
bệnh thủy đậu 5 ngày trước hoặc 2 ngày sau khi sinh, tỉ lệ Tu vong của trẻ sơ
sinh có thể lên đến 30%.
Bệnh thủy đậu có thể chữa
khỏi hoàn toàn mà không để lại di chứng nếu phát hiện kịp thời và chữa trị đúng
cách.
Điều trị bệnh thủy đậu
Quan trọng nhất trong chăm
sóc và điều trị thủy đậu là làm sạch da và vệ sinh thân thể: tắm rửa bằng các
dung dịch sát khuẩn, thay quần áo nhiều lần trong ngày, cắt ngắn và vệ sinh móng
tay, tránh cọ xát làm các bóng nước bị vỡ. Dùng kháng sinh chỉ khi nghi ngờ có
biểu hiện bội nhiễm.
Điều trị triệu chứng: Ngứa là
triệu chứng gặp ở hầu hết bệnh nhân bị thủy đậu, đặc biệt ở những bệnh nhân có
nổi nhiều bóng nước. Thuốc có thể dùng là các Thuốc kháng histamin như:
chlopheniramin, loratadine…, ngoài ra, dùng các Thuốc bôi tại chỗ như hồ nước
và xanh methylen cũng có hiệu quả rõ rệt. Xanh methylen là loại Thuốc sát khuẩn
nhẹ có dạng dung dịch dùng ngoài 1% hoặc dung dịch milian (gồm xanh methylen,
tím gentian, ethanol, nước cất…). Khi bệnh nhân đau và sốt cao, có thể cho dùng
acetaminophen, không sử dụng aspirin vì có thể gây hội chứng Reye.
Điều trị đặc hiệu bằng Thuốc
kháng virut: Thủy đậu là một bệnh lành tính, Thuốc kháng virut chỉ dùng trong
trường hợp bệnh nặng, phòng
biến chứng viêm phổi thủy đậu,
biến chứng nội tạng
hoặc các bệnh nhân có suy giảm miễn dịch như HIV/AIDS, phụ nữ có thai, người
mới ghép tạng, sử dụng corticoid dài ngày. Tuy nhiên, do bệnh thường gặp nặng ở
đối tượng trẻ vị thành niên và người lớn nên có thể cân nhắc sử dụng Thuốc cho
các đối tượng này.
Acyclovir (adenin guanosine):
Acyclovir là một Thuốc kháng virut thuộc nhóm ức chế ADN polymerase. Là dẫn
xuất guanosin vào cơ thể dưới tác dụng của thymidin kynase và một số enzym khác
tạo thành acyclovir triphosphat, đây là chất một mặt ức chế cạnh tranh với ADN
polymerase của virut nên ức chế sự nhân đôi của ADN; mặt khác, nó gắn vào cuối
chuỗi ADN và đóng vai trò là chất kết thúc chuỗi ADN, vì vậy, nó ức chế sự nhân
lên của virut. Điểm đáng chú ý là nồng độ của acyclovir triphosphat trong tế
bào nhiễm virut cao gấp 50 - 100 lần ở tế bào lành và ADN của virut nhạy cảm
với acyclovir triphosphat hơn ADN của tế bào vật chủ nên độc tính của acyclovir
triphosphat với tế bào lành ít hơn rất nhiều so với tế bào bị nhiễm virut.
Acyclovir có thể dùng đường uống, đường tiêm hoặc đường tại chỗ (bôi ngoài da),
Thuốc phân bố rộng rãi vào dịch cơ thể và các cơ quan như thận, não, gan,
phổi... và thức ăn không làm ảnh hưởng tới khả năng hấp thu Thuốc. Thời gian
bán thải từ 3 - 4 giờ nên thường sau 4 - 5 giờ sẽ dùng Thuốc một lần. Thuốc có
hiệu quả nhất nếu khi sử dụng trong vòng 24h trước khi nổi bóng nước, trung
bình 5 - 7 ngày hoặc đến khi không có bong bóng nước mới xuất hiện nữa.
Liều lượng phụ thuộc lứa tuổi
hoặc cân nặng (đối với trẻ nhỏ). Trường hợp nặng hơn hoặc có
biến chứng như
viêm màng não, trẻ suy giảm miễn dịch, có thể dùng acyclovir đường tĩnh mạch.
Biện pháp phòng ngừa
Khi trong gia đình, trường
học, công sở... có người mắc bệnh, cần cách ly bệnh nhân 7 - 10 ngày để tránh
lây lan cho cộng đồng. Nếu trẻ ở độ tuổi đi học, khi mắc bệnh phải nghỉ học và
người lớn phải nghỉ làm 1 - 2 tuần. Tuy nhiên, việc cách ly bệnh nhân không bảo
đảm ngừa được bệnh cho người khác vì siêu vi có thể lây lan từ trước khi phát
mụn nước và sau khi mụn nước đã lành.
Tạo miễn dịch thụ động: Tiêm
globin miễn dịch như VZIG (Herpes – Zoster immune globin) hay HZIP (Herpes –
Zoster immune plasma) cho những người suy giảm miễn dịch sau khi tiếp xúc trực
tiếp với người bị thủy đậu. Các đối tượng có chỉ định dùng bao gồm: trẻ dưới 15
tuổi bị suy giảm miễn dịch chưa bị thủy đậu hoặc chưa được chủng ngừa, trẻ sơ
sinh sinh ra từ các bà mẹ bị thủy đậu trong vòng 5 ngày trước hoặc 2 ngày sau
sinh. Thuốc chỉ cần 1 liều duy nhất.
Tạo miễn dịch chủ động: Tiêm
vaccin để ngừa thủy đậu là giải pháp hiệu quả nhất hiện nay. Khả năng dự phòng
đạt 90 - 100% với thủy đậu nặng và 70 -
90% với thủy đậu nhẹ. Vaccin ngừa thủy đậu tạo được miễn nhiễm lâu dài gần như
suốt đời, tính an toàn cao, ít tác dụng phụ.
Hiện nay, các bác sĩ khuyến cáo nên tiêm tiêm
phòng thủy đậu cho hầu hết các trẻ em. Chỉ cần tiêm 2 mũi. Mũi đầu tiên tiêm
lúc trẻ 1 tuổi và mũi thứ hai (tiêm nhắc lại) lúc 4 tuổi. Đối với người lớn
chưa bị thủy đậu, có thể tiêm phòng vào bất cứ lúc nào.
BS. Đỗ Thị Lệ Quyên
(Khoa
Truyền nhiễm - Bệnh viện 103)