Là kén đơn độc lành tính, loại tổn thương hay gặp nhất ở thận. Tuổi càng cao tần suất kén càng tăng (gặp 50% ở độ tuổi 50). Kén xuất phát từ vỏ thận, có thể phát triển ra ngoài thận hay vào nhu mô. Kích thước thay đỗi từ vài mm đến nhiều cm. Kén chứa dịch tương tự huyết thanh. Cơ chế bệnh sinh chưa sáng tỏ chỉ biết kén hình thành do tắc các ống thận. Tiến triển chậm, thường không có triệu chứng lâm sàng. Kén có thể vở vào đài thận gây cơn đau vùng hông và tiểu máu.
Có thể thấy bóng thận lớn bờ lồi. Kén lớn có thể đẩy hơi trong ruột, xòa bờ cơ thắt lưng chậu. Có thể thấy vôi hóa dạng đường viền ngoại vi kén.
Hình cầu, rỗng âm, tăng âm sau, bờ đều không thấy rõ thành kén. Nếu đủ các tiêu chuẩn trên, độ chính xác siêu âm là 100%.
Kén có tỉ trọng thấp như dịch (-10 đến 20UH), đồng nhất, giới hạn đều rõ, không thấy thành, không ngấm Thu*c cản quang. cắt lớp vi tính chẩn đoán với độ chính xác 100%.
Kén không điển hình không có đủ các dấu hiệu của kén điển hình . Chẳng hạn kén điển hình khi bị xuất huyết, có máu cục trở nên không đồng nhất, sau đó xuất hiện vôi hóa. Kén điển hình bị nhiễm trùng, trở nên không đồng nhất, thành dày, ngấm Thu*c cản quang trên cắt lớp vi tính, có vách trong kén. Phải phân biệt với ung thư dạng kén, khối có một hay nhiều kén, thành dày không đều là phần đặc của u, ngấm Thu*c cản quang.
Tổn thương lành tính, xẩy ra ở mọi lứa tuổi, thường không có triệu chứng, trừ khi kén lớn chèn vào bể thận gây đau lưng, chèn vào động mạch thận gây tăng huyết áp.
Kén hình thành do đường bạch mạch giãn. Kén chứa dịch có albumine, lipid và cholesterol. Kén thường nhiều ổ không thông với đài bể thận, đẩy bể thận về một phía hoặc bao quanh các đài bể thận và kéo dài các đài thận.
Trên siêu âm là khối rỗng âm, tăng âm sau, thành mỏng, ở xoang thận. Phân biệt với ứ nước đài bể thận, ở đây các kén cạnh bể thận không thông nhau.
Bất thường xẩy ra trong thời kỹ bào thai, từ mầm niệu quản, đặc trưng là hiện diện nhiều kén cùng với tổ chức loạn sản toàn thận, rất hiếm khi gặp hai thận hay chỉ một phần thận.
Trên siêu âm thấy nhiều kén với kích thước không đều nhau, không thông nhau. Nhu mô thận giữa các kén chỉ là tổ chức loạn sản, tăng âm. Không thấy bể thận.
Đây là bệnh di truyền. Kén có nguồn gốc từ nephron. Thường xẩy ra hai thận, nếu thấy thận đa kén một bên thì bên kia có bất thường kín đáo hơn, những kén nhỏ hơn. Khoảng 50% trường hợp kết hợp với những bất thường khác như kén gan, kén tụy, kén lách, túi phình động mạch não. Theo thời gian các kén lớn hơn, thận lớn và bờ có múi, chức năng thận suy dần. Dịch kén có thành phần tương tự nước tiểu, trừ khi bị xuất huyết hoặc nhiễm khuẩn.
Trên phim bụng có thể thấy bóng thận lớn gây dấu hiệu đẩy hơi trong ruột (hội chứng khối), xóa bờ cơ thát lưng chậu.
Trên niệu đồ tĩnh mạch mô thận cản quang không đồng nhất. Khi đài bể thận nhuộm đầy cản quang thấy bể thận hẹp theo chiều ngang tăng và theo chiều dọc. Các đài thận bị kéo dài, mảnh dẻ, lệch hướng do nhiều kén đè vào.
Trên siêu âm phát hiện thận đa kén, ngay cả ở giai đoạn sớm, thận lớn với rất nhiều kén nhỏ. Khi kén bị nhiễm khuẩn hay xuất huyết sẽ thấy cấu trúc âm của các kén không đồng nhất, thành kén dày, vôi hóa. Siêu âm đồng thời có thể thấy kén ở gan hoặc tụy, lách.
Bệnh di truyền thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi nhất là dưới 1 tuổi. Có thể được chẩn đoán trong thai kỳ. Tổn thương xẩy ra ở các ống thận, mức độ nặng nhẹ tùy thuộc vào tỉ lệ ống thận bị tổn thương, có thể Tu vong sớm ở trẻ nhỏ. Bệnh biểu hiện càng sớm càng nặng.
Hình ảnh siêu âm thấy hai thận lớn đều, có rất nhiều kén nhỏ 1-2mm là những ống thận giãn. Do giãn ống thận lan tỏa nên nhu mô thận tăng âm, mất phân biệt tủy võ
Nguồn: Internet.