Rối loạn cầm máu có thể do những thiểu sót hoặc về số lượng chức năng tiểu cầu hoặc do vấn đề tạo thành các cục fibrin (đông máu). Chảy máu do những rối loạn tiểu cầu điển hình là chảy máu niêm mạc hay da. Những vấn đề thường gặp là chảy máu cam, chảy máu lợi, rong kinh, chảy máu dạ dày ruột, bầm máu và chấm xuất huyết. Chấm xuất huyết hầu như tuyệt đối gặp trong những hoàn cảnh giảm tiểu cầu và không có rối loạn chức năng tiểu cầu. Chảy máu do bệnh lý đông máu có thể xuất hiện ở các u máu trong cơ sâu cũng như chảy máu ở da. Chảy máu khớp tự phát chỉ thấy ở bệnh ưa chảy máu nặng.
Hội chứng huyết tán - tăng urê huyết là một rối loạn ít gặp gồm thiếu máu huyết tán bệnh lí động mạch nhỏ (với giảm độ lọc cầu thận, protein niệu và đái máu). Nguyên nhân chưa biết. Bệnh giống như xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối trừ các lớp mạch máu khác nhau đều bị. Quá trình sinh bệnh của hai bệnh đều gần giống nhau và yếu tố ngưng tập tiểu cầu có trong huyết tương có thể cùng tham gia vào. Ở trẻ em, hội chứng huyết tán tăng urê máu thường xẩy ra sau một đợt ỉa chảy thứ phát nhiễm khuẩn Shigela, Salmonella, E. Coli chủng 0157; H7 hay do virus. Tỉ lệ Tu vong của thể này thường thấy (dưới 5%). Ở người lớn, hội chứng này thường tăng lên do dùng estrogen hay mang thai (đặc biệt sau khi đẻ) hoặc xẩy ra như một biến chứng của tăng huyết áp ác tính hay ghép thận. Đã nhận biết typ bệnh gia đình (di truyền) trong đó những thành viên của gia đình có những đợt tái phát trong nhiều năm.
Bệnh nhân đến với thiếu máu, chảy máu hay suy thận. Suy thận có thể có hoặc không có thiểu niệu. Trái với xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, không có những biểu hiện thần kinh nào ngoài những biểu hiện do tình trạng urê huyết cao.
Như trong xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, có thiếu máu huyết tán bệnh lí động mạch nhỏ và giảm tiểu cầu nhưng giảm tiểu cầu thường ít nặng hơn. Kính phết máu ngoại vi thấy có các mảnh hồng cầu và không thể chẩn đoán hội chứng huyết tán tăng urê máu nếu không có dấu hiệu này. LDH thường tăng cao rõ rệt tỉ lệ có mức độ nặng của huyết tán và test Coombs thường là âm tính. Các test đông máu bình thường trừ tăng các sản phẩm thoái giáng fibrin.
Suy thận bao giờ cũng có và tổn thương thận. Vô niệu đòi hỏi phải thẩm phân. Sinh thiết thận cho thấy các cục đông trong nội mô trong các tiểu động mạch đến và các cầu thận. Hoại tử do thiếu máu cục bộ trong vỏ thận có thể xảy ra vì tắc nghẽn do hiện tượng đông máu nội mạch.
Đông máu rải rác nội mạch được loại trừ do các kết quả đông máu bình thường. Cần phải xem xét những nguyên nhân khác gây thiếu máu huyết tán bệnh lí động mạch nhỏ. Đôi khi viêm mạch máu hay viêm cầu thận cấp được xem xét và trong những trường hợp này, sinh thiết thận có thể cần thiết để xác lập chẩn đoán nếu như số lượng tiểu cầu cho phép làm sinh thiết.
Hội chứng huyết tán - tăng urê huyết có thể được phân biệt một cách khách quan với ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối bởi sự cố mặt chắc chắn của suy thận và sự thiếu vắng những dấu hiệu thần kinh.
Ở trẻ em, hội chứng huyết tán - tăng urê huyết phần lớn thường tự hạn chế và chỉ đòi hỏi điều trị bảo tồn suy thận cấp. Ở người lớn, ngược lại, nếu không điều trị, có tỉ lệ cao suy thận vĩnh viễn và bị Tu vong. Điều trị chọn lọc (như trong xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối) là dùng huyết tương đã tinh chế khối lượng lớn với huyết tương tươi lạnh (trên 80 mL/ kg), làm lại hàng ngày cho đến khi đạt được lui bệnh.
Tiên lượng hội chứng huyết tán - tăng urê huyết của người lớn vẫn còn chưa rõ. Không có điều trị có hiệu lực, trên 40% bị Tu vong và 80% bị suy thận mạn tính. Điều trị tấn công sớm bằng thay huyết tương đã hứa hẹn có nhiều lợi ích. Kéo dài đời sống và điều chỉnh những bất thường huyết học là cần thiết nhưng việc thiết lập lại chức năng thận và đòi hỏi phải tiến hành sớm.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
8 bệnh nhân 8 bệnh nhân khỏi bệnh bệnh nhân Bệnh nhân khỏi bệnh ca mắc ca mắc mới Các biện pháp các cơ cầm máu chống dịch dịch covid dự kiến hội chứng khỏi bệnh mắc mới nâng cấp rối loạn sở y tế thêm ca mắc Thêm ca mắc mới