Nhiễm ấu trùng sán dải heo hệ thần kinh trung ương (hay còn gọi là nhiễm ấu trùng sán lợn hệ thần kinh trung ương – Neurocysticercosis) là bệnh ký sinh trùng phổ biến nhất của hệ thần kinh và là nguyên nhân chính của bệnh động kinh ở các nước đang phát triển. Đây cũng là một vấn đề trong các nước công nghiệp vì sự nhập cư của những người lành mang trùng từ các vùng dịch tễ.
Nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương (hay còn gọi là nhiễm ấu trùng sán lợn
hệ thần kinh trung ương – Neurocysticercosis) là bệnh ký sinh trùng phổ biến nhất của hệ thần kinh và là nguyên nhân chính của bệnh động kinh ở các nước đang phát triển. Đây cũng là một vấn đề trong các nước công nghiệp vì sự nhập cư của những người lành mang trùng từ các vùng dịch tễ.
Bị nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương có thể qua tiếp xúc phân - miệng với người lành mang trùng (tên khoa học là Taenia solium). Điều này cho thấy sự hiện diện của người lành mang trùng trong môi trường lân cận (ví dụ, hộ gia đình) hoặc tình cờ nuốt phải thức ăn bị ô nhiễm. Đã có báo cáo nhiều trường hợp tự nuốt, trong đó người bệnh sán dải heo có thể nuốt trứng sán vào ruột.
Nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương là hậu quả của tình cờ nuốt phải trứng của sán dải heo (ví dụ, ăn thịt heo có sán dải), thường là do ô nhiễm thực phẩm bởi người bệnh sán dải heo.
Sán dải heo có một chu kỳ sinh học 2 vật chủ, trong đó con người là vật chủ chính mang sán dải heo đường ruột, và lợn là vật chủ trung gian chứa chấp ấu trùng hoặc nang sán. Ký sinh trùng này có một cái đầu sán với 4 giác bám và 2 vòng móc, cổ sán không phân đoạn và một thân lớn với hàng trăm đốt sán lưỡng tính.
Khi người ăn thịt heo chưa chín có nhiễm sán, nang sán vào trong ruột non, bám vào thành ruột bằng giác bám và móc, và phát triển thân sán với nhiều đốt. Từ đầu xa của chuỗi đốt sán, trứng đã được thụ tinh được bài tiết vào đốt sán chứa nhiều trứng. Một đốt sán có thể chứa đến 60.000 trứng sán.
Heo (lợn) ăn thức ăn dính phân có trứng sán, ấu trùng nở ra chủ động vượt qua thành ruột, vào máu, và đi đến hầu hết các mô, nơi cư trú tạo nang sán. Ấu trùng được tìm thấy phổ biến nhất trong hệ thống thần kinh trung ương, nhưng cũng có thể có trong hốc mắt, trong cơ, hoặc dưới da hoặc các mô khác.
Nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương là bệnh nhiễm ký sinh trùng phổ biến nhất của hệ thống thần kinh trung ương. Khoảng 2,5 triệu người trên toàn thế giới mang sán dải heo trưởng thành, và số nhiều hơn nữa bị nhiễm nang sán.
Tại Hoa Kỳ, nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương chủ yếu là bệnh của những người nhập cư, và căn bệnh này là phổ biến ở các bang California, Texas, và New Mexico. Nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương là một nguyên nhân chính gây bệnh tật trong dân số Tây Ban Nha. Mặc dù hầu hết các trường hợp đã được chẩn đoán ở người gốc Tây Ban Nha, việc du lịch đến các vùng của bệnh dịch đang làm tăng tỷ lệ mắc bệnh ở các nước không phải vùng dịch tễ . Đã có báo cáo nhiều trường hợp ở địa phương, có lẽ vì ăn phải thực phẩm bị nhiễm do xử lý bởi những người mang mầm bệnh.
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương tăng đều đặn ở Hoa Kỳ. Mặc dù vẫn còn phổ biến ở Tây Nam Hoa Kỳ, các trường hợp nhập cư đã được báo cáo trong cả nước.
Trên toàn cầu, nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương có vùng dịch tễ ở Trung và Nam Mỹ, châu Phi cận Sahara, và ở một số vùng của vùng Viễn Đông, bao gồm cả tiểu lục địa Ấn Độ, Indonesia, và Trung Quốc, đạt tỷ lệ 3,6% ở một số vùng. Bệnh này là rất hiếm ở Đông và Trung Âu, Bắc Mỹ (với ngoại lệ của Mexico), và tại Úc, Nhật Bản và New Zealand, cũng như ở Israel và các quốc gia Hồi giáo ở châu Phi và châu Á.
Bệnh nang sán dải heo có thể được nhìn thấy trong dân số nhập cư với một tần số tương đối cao, như ở miền Tây Nam Mỹ và Nam Phi, và bệnh nang sán dải heo dưới da là phổ biến hơn ở người châu Á hơn so với các dân tộc khác của các khu vực khác của bệnh dịch. Đây không phải là rõ ràng cho dù điều này là do sự khác biệt về chủng ký sinh trùng hoặc cho những vật chủ.
Mặc dù nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương có lẽ ảnh hưởng đến cả nam và nữ như nhau, có một số bằng chứng cho thấy nhiễm ký sinh trùng này có thể nặng ở nữ hơn so với ở nam. Ngoài ra, mặc dù thực tế rằng nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương dường như là nguyên nhân thường gặp nhất của co giật ở trẻ em và người lớn (tỷ lệ mắc cao điểm, 30-40 tuổi), tỷ lệ chính xác ở trẻ em chưa được biết.
Thực hành lâm sàng cần thiết nhiễm ấu trùng sán dải heo hệ thần kinh trung ương
Viện Thần Kinh Học Hoa Kỳ (AAN- The American Academy of Neurology) đưa ra một hướng dẫn điều trị nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương.
Hướng dẫn ban hành trong tháng 4 năm 2013 của Viện Thần Kinh Học Hoa Kỳ, khuyến cáo sử dụng albendazole kết hợp với một corticosteroid để điều trị nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương. Hướng dẫn cũng được xác nhận bởi Hội Bệnh Động Kinh Hoa Kỳ(American Epilepsy Society), khuyến cáo điều trị bằng Albendazole (400 mg hai lần mỗi ngày cho người lớn hoặc liều theo cân nặng cho cả người lớn và trẻ em) kết hợp với một trong hai dexamethasone hoặc prednisolone để giảm số lượng tổn thương đang hoạt động trên hình ảnh học sọ não và làm giảm tần số cơn động kinh lâu dài.
Các dấu hiệu và triệu chứng nhiễm ấu trùng sán dải heo hệ thần kinh trung ương
Biểu hiện lâm sàng của nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương thay đổi theo vị trí tổn thương, số lượng ký sinh trùng, và đáp ứng miễn dịch của người bệnh. Nhiều bệnh nhân không có triệu chứng. Triệu chứng có thể bao gồm:
Động kinh: phổ biến nhất (70%).
-
-
-
Khởi đầu của hầu hết các triệu chứng thường là bán cấp đến mãn tính, nhưng những cơn động kinh thường cấp tính.
Những phát hiện bất thường về thể chất, xảy ra ở 20 % hoặc ít hơn trong những bệnh nhân bị nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương, phụ thuộc vào vị trí nang sán ở hệ thần kinh và bao gồm:
Nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương thường được chẩn đoán với việc sử dụng thường quy các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như
chụp cắt lớp vi tính (CT)
và
chụp cộng hưởng từ (MRI) của não
.
Chẩn đoán hình ảnh:
Kết quả CT
khác nhau như sau, tùy thuộc vào giai đoạn tiến triển của ấu trùng:
Giai đoạn nang (ấu trùng còn sống): Tổn thương giảm đậm độ và không bắt cản quang.
-
-
-
-
-
Chụp cộng hưởng từ (MRI)
là phương pháp chẩn đoán hình ảnh lựa chọn để đánh giá nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương đặc biệt là các nang sán trong não thất, bể não và khoang dưới nhện.Hình ảnh phát hiện được trên MRI bao gồm:
Giai đoạn nang: Các nang sán có tín hiệu giống dịch não tủy; tín hiệu cao trên T2W và đầu sán có thể được nhìn thấy, không có phù quanh tổn thương và thường không bắt Thu*c tương phản từ.
-
-
Xét nghiệm dịch não tủy được chỉ định ởbệnh nhân mới khởi phát co giật hoặc khiếm khuyết thần kinh trong khi hình ảnh chẩn đoán cho thấy một tổn thương đơn độc nhưng không cung cấp một chẩn đoán xác định. Chống chỉ định dọc dò dịch não tuỷ trong các trường hợp u nang lớn gây phù nề nghiêm trọng và di lệch các cấu trúc não, cũng như trong các tổn thương gây não úng thủy tắc nghẽn.
Kết quả phát hiện được trong dịch não tủy bao gồm:
Các xét nghiệm khác như sau:
Điều trị nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương phụ thuộc vào giai đoạn tiến triển của ấu trùng và các biến chứng của nó.
Nếu ký sinh trùng đã ch*t, cách tiếp cận như sau:
Điều trị chủ yếu là điều trị triệu chứng.
-
-
Nếu ký sinh trùng còn sống hoặc đang hoạt động, các điều trị khác như sau:
Bệnh nhân viêm mạch, viêm màng nhện hoặc viêm não: Khuyến cáo một đợt điều trị steroid hoặc ức chế miễn dịch trước khi sử dụng Thu*c đặc trị sán dải heo.
-
-
-
-
Chỉ định can thiệp phẫu thuật và thủ tục đề nghị như sau:
Não úng thủy do nang sán trong não thất: Có thể đặt một ống thông (shunt) não thất, tiếp theo là phẫu thuật lấy hết nang và điều trị nội khoa.
-
-
Tiên lượng trong hầu hết các bệnh nhân nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương là tốt. Co giật có vẻ cải thiện với Thu*c điều trị sán và các Thu*c chống động kinh hàng đầu có thể kiểm soát được cơn. Tuy nhiên, thời gian điều trị không được xác định.
Không có số liệu thống kê của tỷ lệ Tu vong liên quan với nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương.Tuy nhiên, tổn thương dưới dạng nhiều nang trong bể não (racemose), nhiều nang lớn tương tự như chùm nho nằm ở khoang dưới nhện có tiên lượng xấu và tỷ lệ Tu vong cao (> 20%).
Động kinh do nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương là một nguyên nhân quan trọng của bệnh thần kinh, và động kinh mạn tính là một trong những biến chứng thường gặp nhất của nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương. Các triệu chứng khác bao gồm đau đầu, khiếm khuyết thần kinh do đột quỵ, và não úng thủy. Bệnh nhân có các biến chứng như não úng thủy, nang sán lớn, nhiều tổn thương phù nề, viêm màng não mãn tính, viêm mạch thường bị bệnh cấp tính và không đáp ứng tốt với điều trị. Thường các biến chứng do điều trị nội khoa và phẫu thuật.
Giáo dục bệnh nhân
Nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương là một vấn đề sức khỏe cộng đồng ở các nước phát triển và đang bùng phát như một bệnh ngày càng quan trọng trong vùng không phải dịch tễ. Chương trình can thiệp dài hạn toàn diện liên quan đến pháp luật, giáo dục sức khỏe, hiện đại hóa tập quán chăn nuôi heo (lợn), nâng cao hiệu quả và phạm vi kiểm tra thịt, cung cấp các thiết bị vệ sinh đầy đủ, và các biện pháp để phát hiện và điều trị sán ở người mang mầm bệnh.
Tình hình chính trị và kinh tế thực tế ở nhiều cộng đồng nơi vùng dịch tễ sán dãi heo ngày nay cho thấy rất ít hy vọng rằng có thể đạt được tất cả các mục tiêu trong tương lai gần. Tuy nhiên, cách tiếp cận ngắn hạn có thể có hiệu quả trong dài hạn, bao gồm các chiến dịch giáo dục vệ sinh cá nhân và vệ sinh chung trong khu vực bệnh lưu hành.
Lưu ý rằng các hạn chế thông thường cho bệnh nhân bị động kinh sẽ được áp dụng cho những bệnh nhân có biểu hiện co giật do nhiễm ấu trùng sán dải heo
hệ thần kinh trung ương.
Tài liệu tham khảo
http://emedicine.medscape.com/article/1168656-overview#showall
http://khoahocphothong.com.vn/news/detail/3547/benh-nhiem-trung-ky-sinh-trung-he-than-kinh-trung-uong.html
http://www.impe-qn.org.vn/impe-qn/vn/portal/InfoDetail.jsp?area=58&cat=1202&ID=6328
http://radiopaedia.org/articles/neurocysticercosis