Đa khoa hôm nay

Đa khoa là từ dùng để chỉ một cơ sở y tế hoặc bác sĩ đảm nhiệm điều trị nhiều chuyên khoa

Nhiễm trùng huyết, nguyên nhân gây Tu vong cao

Một số trường hợp bệnh nặng, điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện bị Tu vong, được chẩn đoán có nguyên nhân do nhiễm trùng huyết.

nhiễm trùng huyết.

Có thể nói, nhiễm trùng huyết là một bệnh nhiễm khuẩn toàn thân nặng, do sự xâm nhập liên tiếp vào máu, của vi khuẩn gây bệnh và độc tố của vi khuẩn. Bệnh cảnh lâm sàng khá đa dạng, vì quá trình phát triển bệnh lý, phụ thuộc không những vào mầm bệnh, mà còn phụ thuộc vào sự đáp ứng của từng cơ thể người bệnh. nhiễm trùng huyết thường tiến triển nặng, và không có chiều hướng tự khỏi, nếu không được xử trí điều trị kịp thời.

Nói một cách khác, nhiễm trùng huyết là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, có nguyên nhân từ vi khuẩn lưu hành ở trong máu, chúng gây ra các triệu chứng lâm sàng đa dạng, làm suy đa phủ tạng, sốc nhiễm khuẩn với tỉ lệ Tu vong rất cao, có thể từ 20 đến 50% các trường hợp, trong đó, sốc nhiễm khuẩn là một tình trạng, biểu hiện trầm trọng của nhiễm trùng huyết. Trên thực tế, có một số yếu tố nguy cơ, dễ dẫn đến bệnh lý nhiễm trùng huyết bao gồm: người cao tuổi, trẻ sơ sinh, trẻ sinh non, người có sử dụng Thu*c ức chế miễn dịch, Thu*c corticoid kéo dài, Thu*c chống thải ghép, đang điều trị hóa chất và tia xạ, người có bệnh mãn tính như: đái tháo đường, nhiễm HIV/AIDS, xơ gan, bệnh van tim và tim bẩm sinh, bệnh phổi mạn tính, suy thận mạn tính, người bệnh đã cắt lách, nghiện rượu, có bệnh máu ác tính, giảm bạch cầu hạt, bệnh nhân có sử dụng các thiết bị hoặc dụng cụ xâm nhập cơ thể, như đóng đinh nội tủy, đặt ống dẫn truyền, đặt ống nội khí quản, vân vân.

Nguyên nhân gây nhiễm trùng huyết, do vi khuẩn xâm nhập trực tiếp vào máu, hoặc từ các ổ nhiễm khuẩn ở các mô tế bào, những cơ quan như: da, mô mềm, cơ, xương, khớp, hô hấp, tiêu hóa, vân vân. Các loại vi khuẩn thường gây nhiễm trùng huyết gồm, vi khuẩn gram âm, vi khuẩn gram dương và vi khuẩn kỵ khí. Vi khuẩn gram âm chủ yếu là vi khuẩn đường ruột, họ Enterobacteriacae như: Salmonella, Escherichia coli, Klebsiella, Serratia và các vi khuẩn Enterobacter, vân vân, ngoài ra còn có Pseudomonas aeruginosa, Burkholderia pseudomallei. Vi khuẩn gram dương thường gặp là Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus, Streptococcus suis, vân vân. Vi khuẩn kỵ khí thường gặp là Clostridium perfringens và Bacteroides fragilis.

nhiễm trùng huyết.

Trong thực tế, bệnh lý nhiễm trùng huyết được chẩn đoán xác định, căn cứ vào các triệu chứng biểu hiện trên lâm sàng, và kết quả thực hiện những xét nghiệm có liên quan.

Về mặt lâm sàng: người bệnh phải có những quy định sau đây:

Bệnh nhân người lớn, có ít nhất một trong các dấu hiệu hay triệu chứng sau đây, mà không tìm ra được nguyên nhân nào khác như: sốt cao trên 38oC, hạ huyết áp, với huyết áp tâm thu từ 90mmHg trở xuống, hay nước tiểu ít dưới 20cm3 mỗi giờ, không thực hiện được việc cấy máu của bệnh nhân, hoặc không tìm ra tác nhân gây bệnh, hay kháng nguyên trong máu, không thấy tình trạng nhiễm trùng ở các vị trí khác trên cơ thể, bác sĩ đang thiết lập việc điều trị theo hướng nhiễm trùng huyết.

Bệnh nhân trẻ em từ 1 tuổi trở xuống, có ít nhất một trong các dấu hiệu hay triệu chứng sau đây, mà không tìm ra được nguyên nhân nào khác như: sốt cao trên 38oC, thân nhiệt hạ dưới 37oC, ngừng thở, tim đập chậm, mà không tìm ra nguyên nhân nào khác, không thực hiện được việc cấy máu, hoặc không tìm ra tác nhân gây bệnh hay kháng nguyên trong máu, không thấy tình trạng nhiễm khuẩn tại các vị trí khác của cơ thể, bác sĩ đang thiết lập việc điều trị theo hướng nhiễm trùng huyết.

Về mặt xét nghiệm: người bệnh phải có những quy định sau đây:

Bệnh nhân người lớn, có một hay nhiều lần cấy máu cho kết quả dương tính, vi khuẩn được phân lập từ máu, không có liên quan đến nhiễm trùng ở vị trí khác. Hoặc bệnh nhân có ít nhất một trong các dấu hiệu, hay triệu chứng như: sốt cao trên 38oC, rét run, hạ huyết áp với huyết áp tâm thu dưới 90mmHg, đồng thời có ít nhất một trong các dấu hiệu gồm: phân lập được vi khuẩn thường trú trên da, từ hai hoặc nhiều lần cấy máu khác nhau, phân lập được vi khuẩn thường trú trên da, từ ít nhất một lần cấy máu, trên bệnh nhân có đường truyền mạch máu, và bác sĩ thiết lập điều trị kháng sinh phù hợp nhiễm trùng huyết, có thử nghiệm kháng nguyên dương tính trong máu, với vi khuẩn Hemophilus influenzae, Streptococcus pneumoniae, vân vân, và triệu chứng, kết quả xét nghiệm không liên quan đến nhiễm trùng ở vị trí khác.

Bệnh nhân trẻ em từ 1 tuổi trở xuống, có ít nhất một trong các dấu hiệu hay triệu chứng như: sốt trên 38oC, thân nhiệt hạ dưới 37oC, ngừng thở, tim đập chậm, đồng thời có ít nhất một trong các dấu hiệu gồm: phân lập được vi khuẩn thường trú trên da, từ hai hoặc nhiều lần cấy máu khác nhau, phân lập được vi khuẩn thường trú trên da, từ ít nhất một lần cấy máu trên bệnh nhân, có đường truyền mạch máu, và bác sĩ thiết lập điều trị kháng sinh phù hợp nhiễm trùng huyết, có thử nghiệm kháng nguyên dương tính trong máu, với vi khuẩn Hemophilus influenzae, Streptococcus pneumoniae, vân vân, và triệu chứng, kết quả xét nghiệm không liên quan đến nhiễm trùng ở vị trí khác.

Việc điều trị nhiễm trùng huyết, phải bảo đảm các nguyên tắc diệt mầm bệnh, điều chỉnh các rối loạn do nhiễm trùng huyết gây ra, và nâng cao sức đề kháng của người bệnh. Điều trị nguyên nhân phải sử dụng kháng sinh đúng theo quy định, cần dùng kháng sinh theo mầm bệnh vi khuẩn bị nhiễm, và theo kháng sinh đồ, liều Thu*c kháng sinh dùng phải cao, và theo đường tiêm truyền, tốt nhất là dùng đường tĩnh mạch trong những ngày đầu, nên phối hợp các kháng sinh với nhau, để nâng cao hiệu lực điều trị, đối với các loại vi khuẩn kháng kháng sinh, và chưa xác định rõ mầm bệnh vi khuẩn. Thời gian sử dụng kháng sinh, phải bảo đảm yêu cầu không được dưới 2 tuần, tùy theo từng trường hợp cụ thể, mà người bệnh có chỉ định, phải dùng kháng sinh đến vài tháng.

Thu*c kháng sinh được chỉ định dùng phối hợp, để điều trị bao vây khi chưa phân lập được mầm bệnh, vi khuẩn đã kháng kháng sinh, hoặc tình trạng nhiễm trùng do nhiều loại vi khuẩn gây nên, dự phòng và làm chậm lại sự xuất hiện của chủng loại vi khuẩn kháng Thu*c, tăng khả năng ức chế và diệt khuẩn của kháng sinh, vân vân. Cần lưu ý: phải giải quyết triệt để các ổ nhiễm khuẩn nguyên phát, thứ phát, bằng những thủ thuật ngoại khoa, như rạch dẫn lưu ổ áp-xe, lấy bỏ các nguyên nhân gây nhiễm trùng, như những ống dẫn truyền, xông dẫn lưu, vân vân.

Hiện nay, các nhà khoa học khuyến cáo, nên sử dụng một số loại Thu*c kháng sinh phù hợp, để giải quyết nguyên nhân gây nhiễm trùng huyết, có hiệu quả trên thực tế. Nếu nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram dương, thường dùng kết hợp kháng sinh nhóm cephalosporin thế hệ 1, với nhóm quinolon hoặc nhóm aminoglycozid. Nếu nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram âm, thường dùng kết hợp kháng sinh nhóm cephalosporin thế hệ 3, với nhóm quinolon hoặc nhóm amiloglycozid.

Ngoài điều trị đặc hiệu với các Thu*c kháng sinh phù hợp, người bệnh còn cần phải được điều trị theo cơ chế bệnh sinh như: điều chỉnh rối loạn nước và điện giải, giải độc bằng các loại dung dịch Dextro, Ringer lactat, chống toan hóa máu với độ pH dưới 7,2, bằng dung dịch bicarbonat, khi có hội chứng đông máu nội mạch lan tỏa, DIC (disseminated intravascular coagulation), phải điều trị bằng heparin, dùng Thu*c và phương pháp trợ tim mạch, hồi sức hô hấp và tuần hoàn, điều trị tình trạng sốc nhiễm khuẩn, tăng cường sức đề kháng của cơ thể bằng truyền máu, chất đạm và vitamin, thực hiện chế độ ăn với tiêu chuẩn tăng chất đạm, nhiều hoa quả, vân vân.

Việc phòng bệnh nhiễm trùng huyết, muốn đạt được hiệu quả tốt, cần phải thực hiện công tác, vô trùng trong bệnh viện một cách chặt chẽ, đặc biệt là khi làm các phẫu thuật, thủ thuật, vân vân. Lưu ý điều trị triệt để các bệnh có ổ mủ và ổ áp-xe, không được tự nặn, chích sớm những mụn nhọt viêm nhiễm ở ngoài da, như đinh râu là một loại mụn độc, thường xuất hiện ở vùng quanh miệng, hậu bối, là bệnh về da, liên quan đến nhóm các nang lông tóc, gồm nhiều nhọt cụm lại với nhau, vân vân. Nên dùng kháng sinh sớm, đủ liều, có hiệu quả ngay từ đầu, trong những bệnh tiên lượng, có thể chuyển sang nhiễm trùng huyết, do nhiễm tụ cầu khuẩn Staphylococcus, liên cầu khuẩn Streptococcus, phế cầu khuẩn Pneumococcus, các loại vi khuẩn đường ruột Enterococcus. Khi dùng các Thu*c ức chế miễn dịch, cần có chế độ giám sát chặt chẽ, và sử dụng cùng với các Thu*c, để tăng sức đề kháng của bệnh nhân.

Như trên đã nêu, tình trạng nhiễm trùng huyết, thường có khả năng xảy ra tại bệnh viện, nhất là trên những bệnh nhân nặng, được điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu, với thời gian nhiều ngày. Khi bị nhiễm trùng huyết, thì tì lệ Tu vong khá cao, chiếm từ 20 đến 50%, nên nguyên nhân dẫn đến Tu vong, trong một số trường hợp, thường được các bác sĩ giải thích do nhiễm trùng huyết, suy đa phủ tạng, sốc nhiễm khuẩn, vân vân. Vì vậy, việc chủ động phòng ngừa là vấn đề cần được mọi người quan tâm, để hạ thấp bệnh lý nhiễm trùng huyết, trong điều kiện hiện nay, các loại vi khuẩn có xu hướng, kháng lại với các loại kháng sinh đang sử dụng, làm khó khăn, hạn chế công tác điều trị.

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-nhiem-trung-huyet-nguyen-nhan-gay-tu-vong-cao-22224.html)

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY