Hỏi đáp dịch vụ y tế hôm nay

Hỏi đáp dịch vụ y tế

Rối loạn trí nhớ do Thuốc ngủ Dùng Thuốc nên biết

Nằm trong nhóm Thuốc tác động lên thần kinh trung ương, Thuốc ngủ là nhóm Thuốc được sử dụng nhiều nhất. Vì sự biến đổi cuộc sống, các hoạt động thần kinh càng trở nên chủ yếu,
(SKDS) - Nằm trong nhóm Thuốc tác động lên thần kinh trung ương, Thuốc ngủ là nhóm Thuốc được sử dụng nhiều nhất. Vì sự biến đổi cuộc sống, các hoạt động thần kinh càng trở nên chủ yếu, các gánh nặng thần kinh tâm lý như là một vấn đề phổ biến của xã hội hiện đại. Điều này đã dẫn đến hệ quả rối loạn giấc ngủ và việc sử dụng Thuốc ngủ như là một lẽ đương nhiên. Thế nhưng nếu lạm dụng, dùng không đúng sẽ có hại…

Các loại Thuốc ngủ thường dùng

Có rất nhiều loại Thuốc ngủ được sử dụng trong thực tế như nhóm Thuốc ureid (điển hình như các barbiturat), aldehyd, piperidindion, quinazolon, benzodiazepin (điển hình như diazepam)… Chúng ta có thể thấy Thuốc ngủ dưới nhiều tên khác nhau trên thị trường như seduxen, valium (thuộc diazepam), rotunda, lexomil (bromazepam)… Tuy nhiên, cần hết sức cảnh giác với các Thuốc nằm trong nhóm benzodiazepin và imidazopyridin vì chúng có thể gây trục trặc cho trí nhớ.

Cơ chế gây ngủ của cả hai nhóm Thuốc này tương tự nhau. Đó là thông qua cơ chế GABA, là một chất ức chế thần kinh trung ương điển hình, một chất trung gian hóa học thần kinh trong não bộ. Khi GABA gắn được vào thụ cảm thể nằm trên màng tế bào thần kinh thì chúng sẽ gửi tín hiệu là mở kênh Cl. Kênh này hoạt động sẽ bơm ion Cl từ ngoài tế bào vào trong tế bào và làm tăng phân cực. Sự tăng phân cực tế bào thần kinh làm cho tế bào rơi vào trạng thái ức chế và làm cho não bộ nhanh chóng rơi vào trạng thái giảm hoạt động dần tiến tới giấc ngủ. Cả hai Thuốc trên đều có một đặc điểm là khi gắn vào thụ cảm thể của mình thì làm cho GABA trở nên có hoạt tính hơn, dễ dàng gắn vào thụ cảm thể của mình. Như vậy, một cách gián tiếp chúng làm hoạt hóa kênh Cl trên màng tế bào và gây ra ngủ.

Thực ra không phải gắn vào được với tế bào là Thuốc gây ngủ ngay. Cả hai Thuốc này sẽ có tác dụng an thần trước, tức là làm giảm các hoạt động tâm thần sau rồi mới có tác dụng gây ngủ. Ở một góc độ nào đó, người ta cũng xếp hai Thuốc trên vào nhóm Thuốc an thần hay bình thần. Ở một nồng độ khác thì người ta lại thấy Thuốc có tác dụng giãn cơ và chống co giật. Tuy nhiên, hai nhóm Thuốc này đều được sử dụng phổ thông như những Thuốc an thần và Thuốc gây ngủ.

Gây ngủ được, điều đó không có gì đáng phải bàn với hai Thuốc trên. Tuy nhiên, gây ngủ được thì chúng lại gây ra sự cố là cũng không thể nhớ được. Sự suy giảm trí nhớ rất đáng lưu ý khi sử dụng hai Thuốc này.

Rối loạn do imidazopyridin

Người ta đã thử nghiệm và báo cáo zoldipem, một đại diện điển hình của imidazopyridin gây ra suy giảm chức năng trí nhớ. Bằng việc thử nghiệm cho người tình nguyện tham gia uống Thuốc, người ta đã thấy họ bị suy giảm cả trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn là hai thuộc tính quan trọng của trí nhớ.

Trí nhớ ngắn hạn là dạng trí nhớ mà người ta có thể ghi nhớ ngay những gì mình vừa mới tiếp xúc. Còn trí nhớ dài hạn là loại trí nhớ đã được hằn sâu vào trong não bộ trải qua một quá trình chọn lọc thông tin và nhớ có chọn lọc những phần quan trọng nhất.

Khi dùng Thuốc zolpidem, Thuốc làm cho người dùng khó có thể nhớ được những gì mình vừa nhìn thấy, nghe thấy hoặc sờ thấy, tức là trí nhớ ngắn hạn. Người dùng Thuốc này cũng khó có thể khắc ghi sâu những thứ mình muốn nhớ để một thời gian sau mình nhớ lại, tức trí nhớ dài hạn. Tác dụng này sẽ là nguy hại với những đối tượng cao tuổi, người phải làm việc nhiều bằng trí tuệ và thần kinh (như học sinh, sinh viên). Sự cố rối loạn trí nhớ ở đây là trí nhớ thuận chiều, tức là khó có thể ghi nhớ tính từ sau thời điểm uống Thuốc trở đi. Các sự kiện đã được nhớ rõ tính từ trước thời điểm uống Thuốc thì hầu như ít bị ảnh hưởng.

Sự cố với benzodiazepin

Sự suy giảm trí nhớ của benzodiazepin cũng tương tự như với zolpidem, đó là làm suy sụp với cả hai loại trí nhớ là trí nhớ ngắn và trí nhớ dài, nhưng ở một mức độ rõ ràng hơn. Điểm đặc biệt cần lưu ý đó là sự rối loạn trí nhớ của benzodiazepin rất liên quan tới liều và thời gian bán thải của Thuốc. Nếu chúng ta dùng loại benzodiazepin có thời gian bán thải càng dài, liều càng cao thì tác dụng làm hỏng trí nhớ càng nghiêm trọng.

Điểm đặc biệt cần lưu ý là ảnh hưởng của benzodiazepin trên trí nhớ mang tính chất liên quan đến ngôn ngữ và tư duy trừu tượng. Trí nhớ có thông tin liên quan đến ngôn ngữ là loại trí nhớ có hàm ý giải thích, định nghĩa và mô tả. Còn trí nhớ trừu tượng là loại trí nhớ mang tính tư duy logic, giúp người học có thể tiếp thu nhưng kiến thức trừu tượng như quy luật đại số. Người ta đã kiểm nghiệm và thấy rằng, sau một thời gian dùng Thuốc, nhìn được một vật cụ thể thì người dùng Thuốc có thể nhớ được đôi chút, nhưng nếu mô tả bằng ngôn ngữ sau đó yêu cầu mô tả lại thì người bệnh hoàn toàn quên. Người bệnh rất khó nhớ được những thứ mang tính chất “lằng nhằng”, suy diễn.

Chính sự ức chế mạnh mẽ thần kinh trung ương của benzodiazepin có lẽ là chìa khóa của vấn đề. Khi tế bào thần kinh rơi vào trạng thái ức chế kéo dài, chúng ta khó có thể tiếp nhận thêm thông tin, làm cho não bộ khó có thể hình thành trí nhớ ngắn hạn. Vì suy cho cùng, mọi loại trí nhớ đều bắt nguồn từ một quá trình “in vết” trong não bộ mà ra. Sự không thể tiếp nhận hoàn hảo các kích thích mới đã làm cho khả năng nhớ trở nên bị trục trặc. Bên cạnh việc làm rối loạn khả năng nhớ nhanh, sự rối loạn quá trình củng cố thông tin và gợi lại thông tin đã được lưu giữ đã làm suy giảm khả năng nhớ dài hạn. Có lẽ, ngoài tác dụng lên thể lưới hoạt hóa, benzodiazepin còn tác dụng vào nhiều trung khu khác của hệ thần kinh trong đó có hệ thống các trung khu giúp hình thành nên trí nhớ.

Việc lạm dụng và sử dụng kéo dài các Thuốc gây ngủ không những làm cho khả năng nghiện xảy ra mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động ghi nhớ của não bộ. Việc theo dõi sát và liên tục với người dùng Thuốc là một điều nên làm.

BS. Lê An Viên

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-roi-loan-tri-nho-do-thuoc-ngu-dung-thuoc-nen-biet-14510.html)

Chủ đề liên quan:

rối loạn thuốc ngủ

Tin cùng nội dung

  • Cháu không ăn được cơm nữa toàn ăn cháo, khi ăn thấy đầy chướng bụng, bị đưa hơi lên cổ rất khó chịu, nếu ợ hơi được thì đỡ hơn.
  • Theo Đông y, ngải cau có vị cay, tính ấm, vào kinh thận, tác dụng ôn bổ thận khí, tráng dương, ôn trung, táo thấp, tán ứ, trừ hàn thấp, mạnh gân cốt.Cây ngải cau còn có tên là tiên mao, cồ nốc lan, sâm cau, tại một số địa phương vùng cao bà con gọi là soọng ca, thài léng,… thuộc họ tỏi voi lùn. Là loại cây thảo, sống lâu năm, cao 20 - 30cm hay hơn.
  • Rối loạn tăng động là bệnh lý thường gặp, chiếm tỉ lệ từ 3 - 6% ở trẻ em. Bệnh khởi phát sớm và thường gặp nhiều hơn ở các bé trai.
  • Bệnh teo đa hệ thống (multiple system atrophy - MSA) là một bệnh thoái hóa thần kinh, tăng tiến dần với các triệu chứng của parkinson, thất điều tiểu não, suy giảm chức năng thực vật, rối loạn chức năng niệu – Sinh d*c, và bệnh lý của bó vỏ gai.
  • Tim thường đập theo nhịp với chu kỳ không đổi. Rối loạn nhịp tim là sự thay đổi ở nhịp tim. Rối loạn nhịp có nghĩa là tim đập nhanh hoặc chậm quá mức. Rối loạn nhịp cũng có thể có nghĩa là tim đập không đúng chu kỳ (không đều) vì mất nhịp hay có thêm nhịp phụ.
  • Thỉnh thoảng chúng ta có thói quen kiểm tra tỉ mỉ mọi việc. Ví dụ, bạn có thể kiểm tra lại để đảm bảo mình đã tắt bếp điện hay bàn ủi trước khi ra khỏi nhà. Nhưng những người bị rối loạn ám ảnh cưỡng bức (OCD) cảm thấy cần kiểm tra mọi việc lặp đi lặp lại, hoặc có những ý nghĩ hay thực hiện những quy trình và nghi thức lặp đi lặp lại.
  • Lo âu là một phản ứng bình thường để đối phó với căng thẳng và thực sự có thể có ích trong một số hoàn cảnh. Tuy nhiên, đối với một số người, sự lo lắng có thể trở thành quá mức. Mặc dù những người lo âu có thể nhận ra họ đang lo quá mức cần thiết, họ cũng có thể gặp khó khăn trong việc kiểm soát lo âu, và điều đó có thể ảnh hưởng tiêu cực tới sinh hoạt hàng ngày của họ
  • Rối loạn lưỡng cực, còn được biết đến với tên gọi rối loạn cảm xúc lưỡng cực hay bệnh lý hưng-trầm cảm, là một rối loạn của não bộ gây ra những biến đổi bất thường về cảm xúc, sinh lực, mức độ hoạt động và khả năng thực hiện những sinh hoạt thường nhật
  • Chế độ ăn BRAT bao gồm chuối, gạo, sốt táo và bánh mì nướng. Chế độ ăn BRAT giúp ích cho trường hợp rối loạn dạ dày, nôn mửa hoặc tiêu chảy. Áp dụng cho cả người lớn và trẻ nhỏ.
  • Rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention-deficit/hyperactivity disorder: ADHD) là một rối loạn mạn tính ảnh hưởng đến hàng triệu trẻ và thường tồn tại đến tận tuổi trưởng thành. ADHD bao gồm một phức hợp các vấn đề chẳng hạn như khó khăn trong việc duy trì sự tập trung, tăng động (hiếu động thái quá) và có hành vi bốc đồng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY