Bệnh táo bón có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng gặp nhiều hơn cả là ở người cao tuổi (NCT). Táo bón tuy không phải là một bệnh nguy hiểm nhưng gây nhiều phiền muộn và ảnh hưởng khá nhiều đến sức khỏe của người bệnh.
Bệnh táo bón có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng gặp nhiều hơn
cả là ở người cao tuổi (NCT). Táo bón tuy không phải là một bệnh nguy hiểm
nhưng gây nhiều phiền muộn và ảnh hưởng khá nhiều đến sức khỏe của người bệnh.
Táo bón có thể phòng ngừa được nhưng phải kiên trì thực hiện.
Khi nào gọi là táo bón?
Bình thường một người có thể đi ngoài từ 1 - 3 lần trong một
ngày, đêm cũng có thể trên 3 lần trong
một tuần. Được gọi là bị táo bón khi quá 3 ngày chưa đi ngoài, hoặc đi ngoài
dưới 3 lần trong một tuần. Táo bón thường có đau quặn bụng từng cơn, phân rắn,
mỗi khi đi ngoài phải rặn mạnh.
Thông thường thì mọi thức ăn, nước uống sau khi vào dạ dày
rồi xuống ruột đa phần sẽ được hấp thu ở ruột non, phần còn lại và các chất cặn
bã sẽ dồn xuống đại tràng (trừ sữa hấp thu chủ yếu ở dạ dày). Tại đại tràng
(ruột già) số còn lại của chất dinh dưỡng sẽ được hấp thu tiếp tục, các chất
cặn bã, chất độc do vi sinh vật và quá trình chuyển hóa sinh ra sẽ được đào
thải ra ngoài. Trong trường hợp, nếu chất cặn bã, các chất độc hại lưu lại
trong đại tràng của người bệnh càng lâu và càng nhiều thì càng làm ảnh hưởng
càng lớn đến sức khỏe của họ. Khi lượng nước trong chất thải bị hấp thu tiếp
tục, càng làm cho phân rắn lại từng cục rất khó đi ngoài, thậm chí rắn như phân
dê. Một số NCT vừa bị táo bón vừa bị một số bệnh khác có liên quan đến táo bón
thì mỗi lần đi ngoài càng làm cho bệnh nặng thêm vì phải rặn nhiều làm cho áp
lực ổ bụng tăng lên (bệnh trĩ, bệnh tăng huyết áp).
Những nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân gây nên bệnh táo bón, đứng hàng đầu
trong các nguyên nhân là do tuổi tác. Tuổi càng cao, chức năng S*nh l* bị suy
giảm vì cơ hoành, cơ vùng xương chậu yếu đi, các dịch bài tiết của đường ruột
cũng giảm đáng kể (dịch vị, dịch mật, dịch
ruột). Thêm vào đó, sự co bóp của cơ trơn của đường tiêu hóa ngày càng
yếu dần hoặc mắc bệnh nứt kẽ hậu môn gây khó khăn khi đi đại tiện (đau, rát nên
không dám rặn) càng làm cho táo bón tăng lên.
Chế độ dinh dưỡng đóng một vai trò hết sức quan trọng, vì
NCT thường có xu hướng ăn ít chất xơ hơn bởi khả năng nhai, nuốt và tiêu hóa
kém. Lượng chất xơ trong khẩu phần ăn giảm nên dễ dàng bị táo bón. Một số NCT
do chế độ dinh dưỡng không hợp lý do yêu cầu trong điều trị một bệnh nào đó
nhưng người bệnh lại kiêng khem quá mức, ăn ít hoặc chán không muốn ăn (ăn
nhạt, ít muối) nên chất cặn bã ít, phân ít không tạo được phản xạ co bóp của
đại tràng gây nên táo bón.
Một số NCT do thường xuyên ăn những loại thức ăn có nhiều
chất béo như bơ, sữa, đường tinh chế, thức ăn ít chất xơ, ăn nhiều chất cay,
nóng (ớt, hành, hồ tiêu, bồ tạt) và uống nhiều rượu, bia cũng có khả năng gây
nên táo bón.
Táo bón còn do lượng nước đưa vào cơ thể hàng ngày không đủ
sự cần thiết (khoảng từ 1,5 - 2,0 lít) để tiêu hóa thức ăn. NCT thường lười
uống nước (sợ đi tiểu nhiều lần), hoặc ăn ít hoặc không có điều kiện ăn rau,
quả cũng làm giảm lượng nước đưa vào cơ thể.
Một số bệnh thường gặp ở NCT cũng ảnh đến tiêu hóa gây táo
bón như: bệnh thoái hóa khớp, viêm khớp, loãng xương, các bệnh tim mạch, huyết
áp, đái tháo đường, các bệnh hô hấp mạn tính (tâm phế mạn, bệnh phổi tắc nghẽn
mạn tính (COPD).
Một số trường hợp NCT do đang dùng một số Thu*c để điều trị
bệnh cũng gây tác dụng phụ táo bón như: Thu*c chống trầm cảm, Thu*c bao bọc
niêm mạc dạ dày (gastropulgit) hoặc quá lạm dụng một số Thu*c có tác dụng nhuận
tràng như forlax, duphalac (do dùng nhiều quá không có tác dụng nhuận tràng như
mong muốn).
Táo bón cũng có thể do mắc một bệnh khác, điển hình là bệnh
trĩ, đặc biệt là trĩ nội. Bệnh nhân trĩ thường có xu hướng nhịn đi đại tiện vì
sợ đau và chảy máu. Khi nhịn đại tiện lâu và nhiều lần sẽ giảm phản xạ đại
tiện, gây tích trữ phân dẫn đến táo bón.
Một nguyên nhân khá quan trọng gây táo bón ở NCT là ít vận
động hoặc lười vận động cơ thể với vô vàn lý do khác nhau (do sức khỏe yếu, do
mắc các bệnh thoái hóa khớp, do tuổi cao lú lẫn…).
Phòng táo bón như thế nào?
Để đề phòng táo bón hoặc giảm dần bệnh táo bón nên ăn nhiều
rau trong mỗi một bữa ăn. Các loại rau phù hợp với NCT gồm: mồng tơi, khoai
lang, muống, dền, đay. Nên ăn một số thức ăn có nhiều chất xơ như ruốc thịt,
cá. Hàng tuần nếu có điều kiện nên ăn từ 2 - 3 lần cá trong mỗi bữa ăn chính,
thay cho thịt. Nên ăn một số quả như cam, quít, bưởi, xoài, đu đủ chín, dưa
chuột, mướp đắng, mướp. Chuối chín hoặc củ khoai lang luộc (hoặc nướng) cũng có
giá trị đáng kể trong việc phòng táo bón vì có tác dụng nhuận tràng. Không nên
uống rượu, bia (trừ rượu vang đỏ nhưng cũng không lạm dụng), không ăn chất cay,
nóng (ớt, hành, hồ tiêu, bồ tạt).
Những người có bệnh được bác sĩ chỉ định dùng Thu*c mà có
tác dụng phụ gây táo bón thì cần dùng đúng chỉ định của bác sĩ không lạm dụng
Thu*c và khi có hiện tượng gây táo bón cần báo ngay cho bác sĩ (người trực tiếp
điều trị cho mình) có hướng xử trí thích hợp, tránh để táo bón kéo dài xảy ra.
Không nên ngồi lâu mỗi lần đi ngoài và cũng không nên ngồi lâu một chỗ. Hàng
ngày nên tập thể dục nhẹ nhàng tùy theo sức của mình. Có thể đi bộ trong sân,
trong nhà (nếu nhà rộng) hoặc tốt hơn là đi bộ ở công viên, đường vắng xe cộ
qua lại. Tuy vậy, mỗi ngày cũng chỉ nên đi bộ khoảng 60 phút là vừa, chia làm 2
- 3 lần.
PGS.TS. BÙI KHẮC HẬU