Tăng sinh tủy mạn ác tính hay còn gọi là hội chứng tăng sinh tủy ác tính là một nhóm bệnh lý đơn dòng của tế bào gốc vạn năng. Bệnh gây nên do sự tăng sinh không kiểm soát của tế bào gốc sinh máu trong tủy xương, tiến triển mạn tính do liên quan tới khả năng biệt hoá đến giai đoạn trưởng thành của tế bào này.
Lơ xê mi kinh dòng hạt là một bệnh ác tính hệ tạo máu, đặc trưng bởi sự tăng sinh các tế bào dòng bạch cầu hạt biệt hóa, hậu quả là số lượng bạch cầu tăng cao ở máu ngoại vi với đủ các tuổi của dòng bạch cầu hạt.
Lơ xê mi kinh dòng hạt là một bệnh nằm trong hội chứng tăng sinh tủy ác tính, bao gồm: (1) lơ xê mi kinh dòng hạt; (2) Đa hồng cầu tiên phát (bệnh Vaquez); (3) Lách to sinh tủy (xơ tủy vô căn); (4) Tăng tiểu cầu tiên phát.
Tiến trình tự nhiên của lơ xê mi kinh dòng hạt bao gồm ba giai đoạn: (1) giai đoạn mạn tính; (2) giai đoạn tăng tốc; (3) giai đoạn chuyển dạng cấp.
Lơ xê mi kinh dòng hạt là một bệnh máu thường gặp (chiếm 5% tổng số các bệnh tạo máu, 20-25% các bệnh lơxêmi).
Người ta cho rằng lơ xê mi kinh dòng hạt là một bệnh mắc phải, mặc dù trong đa số trường hợp không tìm thấy yếu tố nào trực tiếp gây bệnh.
Tỷ lệ mắc bệnh khá cao trong những người nhiễm chất phóng xạ sau vụ ném bom nguyên tử tại Hyroshima và Nagasaki và ở các bệnh nhân viêm cột sống dính khớp điều trị bằng xạ trị liệu cho phép giả định rằng phóng xạ có thể là một nguyên nhân gây bệnh.
Chưa có bằng chứng chắc chắn nào về các yếu tố khác có thể là nguyên nhân gây bệnh lơ xê mi kinh dòng hạt như virus hay hoá chất.
Nhiễm sắc thể Philadelphia (nhiễm sắc thể Phl) là một nhiễm sắc thể đột biến gặp ở đa số bệnh nhân lơ xê mi kinh dòng hạt (trên 90%). Bằng kỹ thuật nhuộm băng Quinacrin và Giemsa, người ta thấy rằng nhiễm sắc thể Phl là kết quả của chuyển đoạn t(9;22) (q34;ql 1) giữa nhánh dài nhiễm sắc thể số 9 và nhiễm sắc thể số 22.
Người ta cho rằng sự tạo thành nhiễm sắc thể Phl diễn ra trong giai đoạn sớm của quá trình sinh máu ở một tế bào gốc vạn năng.
Trong lơ xê mi kinh dòng hạt, gen hỗn hợp bcr-abl được tạo thành do kết quả chuyển đoạn tạo nên nhiễm sắc thể Phl. Sự hình thành gen hỗn hợp bcr-abl được coi là khâu quan trọng nhất trong cơ chê' bệnh sinh của bệnh lơ xê mi kinh dòng hạt.
Gen bcr-abl mã hoá tổng hợp protein bất thường P210 có hoạt tính tyrosin kinase cao và được coi là có vai trò quan trọng gây lơ xê mi kinh dòng hạt.
Giai đoạn mạn tính của lơ xê mi kinh dòng hạt kéo dài trung bình từ 3 đến 5 năm và được coi là giai đoạn "lành tính" của bệnh.
Bệnh nhân có các triệu chứng chung của các bệnh ác tính như mệt mỏi, kém ăn, sụt cân, ra mồ hôi đêm.
Một số ít bệnh nhân có thể có biểu hiện xuất huyết do bất thường về chức năng tiểu cầu hoặc chức năng sản xuất các yếu tố đông máu của gan.
Các biểu hiện của bệnh gút do tăng acid uric máu gặp trên một số ít bệnh nhân lơ xê mi kinh dòng hạt.
Hội chứng tăng bạch cầu với biểu hiện tắc mạch và tăng độ nhớt máu tương đối thường gặp trong lơ xê mi kinh dòng hạt: tắc mạch lách, tắc mạch chi, tắc tĩnh mạch D**ng v*t, biểu hiện thần kinh do tắc mạch giảm hoặc mất thị giác, thính giác, liệt v.v...
Biểu hiện lâm sàng đặc trưng cho lơ xê mi cấp: thiếu máu, xuất huyết, nhiễm trùng, hội chứng thâm nhiễm.
Tiên lượng của lơ xê mi kinh dòng hạt chuyển cấp rất xấu, thời gian sống thểm ngắn (3 tháng đến 1 năm kể cả khi điều trị đa hoá trị liệu tích cực).
Máu ngoại vi: (1) Thiếu máu (thường là nhẹ hoặc vừa) bình sắc, kích thước hồng cầu bình thường; (2) Số lượng bạch cầu tăng cao (thường trên 50-80 G/l); (3) Gặp đủ các tuổi dòng bạch cầu hạt trong công thức bạch cầu máu ngoại vi; (4) Tỷ lệ tế bào blast hoặc nguyên tủy bào và tiền tủy bào dưới 15%; (5) Tăng tỷ lệ bạch cầu đoạn ưa acid và bạch cầu đoạn ưa base; (6) Số lượng tiểu cầu tăng trên 400 G/l (gặp trong khoảng 50-70% trường hợp).
Tủy xương: (1) Tủy giàu tế bào (số lượng tế bào tủy trên 100 G/l); (2) Tăng sinh dòng bạch cầu hạt đủ các lứa tuổi; (3) Tỷ lệ dòng bạch cầu hạt: dòng hồng cầu (tỷ lệ M:E) trên 10:1 (bình thường là 3- 4:1); (4) Tỷ lệ tế bào blast hoặc nguyên tủy bào và tiền tủy bào dưối 15%.
Máu ngoại vi: (1) Tăng tỷ lệ tế bào blast hoặc nguyên tủy bào và tiền tủy bào trên 30%; (2) Giảm số lượng hồng cầu và nồng độ hemoglobin; (3) Giảm tiểu cầu.
Tủy xương: (1) Giảm sinh dòng hồng cầu và dòng mẫu tiểu cầu do bị lấn át bởi các tế bào non ác tính; (2) Tủy xương tăng sinh các tế bào non ác tính (tế bào blast), trong đó tỷ lệ tế bào blast hoặc nguyên tủy bào và tiền tủy bào trên 30%; (3) Phân loại thể chuyền cấp dòng tủy hay dòng lympho theo phân loại F.A.B.
Chẩn đoán xác định và chẩn đoán giai đoạn lơ xê mi kinh dòng hạt được xác định dựa theo các tiêu chuẩn như sau:
Đa hồng cầu tiên phát: tủy xương tăng sinh chủ yếu dòng hồng cầu, số lượng bạch cầu có thể tăng vừa phải (thường dưới 50 G/l), nhiễm sắc thể Phl âm tính, men phosphatase kiềm bạch cầu tăng.
Tăng tiểu cầu tiên phát: tủy xương tăng sinh chủ yếu dòng mẫu tiểu cầu, số lượng bạch cầu có thể tăng vừa phải (thường dưói 50 G/l), nhiễm sắc thể Phl âm tính, men phosphatase kiềm bạch cầu tăng.
Lách to sinh tủy: tủy xương xơ hoá, số lượng bạch cầu tăng vừa phải (thường dưới 50 G/l), có hình ảnh sinh máu tại lách, nhiễm sắc thể Phl âm tính, men phosphatase kiềm bạch cầu tăng.
Trong phản ứng giả lơ xê mi: bệnh nhân có biểu hiện nhiễm trùng nặng, số lượng bạch cầu tăng vừa phải (thường dưới 50 G/l), không gặp các tuổi đầu dòng của dòng bạch cầu hạt trong công thức bạch cầu, không có sự tăng sinh ác tính dòng bạch cầu hạt trong tủy xương, nhiễm sắc thể Phl âm tính, men phosphatase kiềm bạch cầu tăng.
Hydroxyurea đường uông: khởi đầu bằng liều 30-60 mg/kg cân nặng cơ thể/ngày. Giảm liều tuỳ theo số lượng bạch cầu.
Bệnh nhân có số lượng bạch cầu dưới 10G/l điều trị duy trì: hydroxyurea đường uống: 20 mg/kg cân nặng cơ thểVngày.
Busulfan thường được dùng với liều khởi đầu từ 4-8 mg/ngày. Dừng Thu*c khi số lượng bạch cầu máu ngoại vi giảm xuống 10-20 G/l.
Giảm liều 25% khi số lượng bạch cầu máu ngoại vi của bệnh nhân giảm xuống dưói 2 G/l, hoặc có các tác dụng phụ kéo dài của Thu*c ở mức độ vừa phải, cần ngừng Thu*c nếu có các tác dụng phụ nghiêm trọng, rồi bắt đầu lại vối liều bằng 50% liều Thu*c ban đầu.
Bệnh nhân vẫn cần tiếp tục điều trị trong vòng 3 năm sau khi đạt tình trạng lui bệnh vê tế bào di truyền. Sau thời điểm này, có thể giảm liều Interferon-a ( và dừng Thu*c và xét nghiệm nhiễm sắc thể Phl cứ 6 tháng một lần).
Hiện có hai phương pháp ghép tủy được áp dụng trong điều trị lơ xê mi kinh dòng hạt là ghép tủy xương đồng loại với người cho phù hợp HLA và ghép tủy tự thân.
Truyền máu trong trường hợp thiếu máu rõ (nồng độ hemoglobin dưới 70 g/1). Cần hạn chê' truyền máu nếu bệnh nhân có số lượng bạch cầu máu ngoại vi trên 100 G/l để tránh tăng nguy cơ tắc mạch.
Chủ đề liên quan:
bên dòng sông mẹ cà phê làm khởi phát cơn đau nửa đầu cách cách tăng cân nhanh cơn đau cơn đau nửa đầu đau nửa đầu dòng sông giúp nhau đi qua lỗi lầm khởi phát làm sao lơ xê mi kinh dòng hạt lỗi lầm nơi đầu sóng nửa đầu tăng cân tăng cân nhanh tổ quốc tổ quốc nơi đầu sóng