Bệnh cũng có thể phát sinh khi hệ hô hấp không thể lấy đủ oxy làm cho nồng độ oxy trong máu hạ thấp đến mức nguy hiểm. Suy hô hấp có thể là cấp tính hoặc mạn tính.
Hệ hô hấp là nơi có nhiệm vụ lấy oxy (O2) và loại bỏ carbon dioxide (CO2). Khi hít vào, không khí giàu oxy vào phổi sau đó sẽ vào máu và phân bổ khắp các cơ quan trong cơ thể. Nguồn oxy đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì các chức năng cần thiết của cơ thể.
Khi thở ra, bạn giải phóng carbon dioxide ra khỏi cơ thể. Carbon dioxide là sản phẩm được tạo ra trong quá trình hoạt động của cơ thể. Nếu nồng độ carbon dioxide trong máu cao, chúng có thể gây ảnh hưởng xấu đến các cơ quan trong cơ thể, do đó, việc loại bỏ carbon dioxide là rất cần thiết.
Suy hô hấp cấp tính là tình trạng bệnh lý xảy ra đột ngột và thường cần được cấp cứu y tế. Tuy nhiên, suy hô hấp mạn tính lại là tình trạng bệnh lý phát triển dần dần theo thời gian và đòi hỏi phải điều trị lâu dài.
Suy hô hấp mạn tính thường xảy ra khi các ống dẫn khí vào phổi bị thu hẹp và chịu tổn thương nào đó, làm cản trở sự vận chuyển không khí trong cơ thể, có nghĩa là sẽ có ít oxy được hít vào và ít carbon dioxide được thở ra hơn bình thường.
Bạn nên lưu ý rằng ban đầu các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh suy hô hấp mạn tính có thể không rõ ràng. Chúng xảy ra thường xuyên một cách từ từ trong một thời gian dài. Sau một thời gian, các triệu chứng sẽ biểu hiện rõ dần và có thể bao gồm:
Tím và khó thở: tím xuất hiện khi khó thở, khi thiếu oxy đã nặng (nặng từ từ do tiến triển tự nhiên hay đột ngột do bội nhiễm).
Rối loạn hành vi: xuất hiện khi bệnh nhân dễ kích thích, nhức đầu, rối loạn ý thức, có thể sảng khoái hay ủ rũ, có thể run đập cảnh báo động hôn mê do tăng CO2.
Quan trọng hơn là các triệu chứng nhẹ, sớm hơn, thường phải lưu ý mới phát hiện được, thường gặp trong suy hô hấp mạn nghẽn.
- Thở nhanh, nông kèm lồng ngực giãn rộng có mục đích bù trừ thiếu oxy và giới hạn sự xẹp các phế quản nhỏ do thở ra sâu.
- Thở ra môi khép chặt: mục đích làm giảm hiệu số áp lực giữa phế nang và miệng làm giảm bớt sự xẹp các phế quản.
Test thổi diêm cháy: há miệng thổi diêm cháy cách trên 50cm. Chúm miệng thổi diêm cháy cách 100cm. Nếu không tắt có nguy cơ suy hô hấp mạn.
Nếu không chữa trị kịp thời, bệnh suy hô hấp mạn tính sẽ ngày càng diễn biến phức tạp hơn. Khi bệnh nghiêm trọng, bạn có thể bị rối loạn nhịp tim hoặc hôn mê.
Là một tình trạng bệnh lý của viêm phế quản mạn hoặc khí phế thũng có hạn chế lưu lượng khí do bị hẹp đường dẫn khí. Sự tắc nghẽn này xảy ra có thể không hồi phục hay phục hồi một phần nhỏ đường dẫn khí.
Nguyên nhân chính gây bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là hút Thu*c lá, sau đó là hít Thu*c lá thụ động, ô nhiễm môi trường, nhiễm trùng đường hô hấp và ô nhiễm nghề nghiệp.
Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ.
Khí máu động mạch: xét nghiệm khí máu động mạch là một thủ thuật an toàn, dễ dàng để đo lượng oxy và carbon dioxide trong máu.
Đo nồng độ oxy: bác sĩ có thể xem xét nồng độ oxy trong máu được đưa đến các bộ phận khác nhau của cơ thể bằng xét nghiệm đo nồng độ oxy. Đây là một xét nghiệm khá đơn giản và không gây đau.
Xét nghiệm hình ảnh: bác sĩ có thể sử dụng X-quang hay CT-scan để có thể quan sát phổi của bạn. Những xét nghiệm này có thể cho thấy nguyên nhân gây ra bệnh suy hô hấp mạn tính.
Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh, bác sĩ sẽ lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp. Các lựa chọn có thể bao gồm:
Liệu pháp oxy: bác sĩ có thể sử dụng liệu pháp oxy nếu bạn không có đủ oxy trong máu. Liệu pháp này giúp tăng nồng độ oxy bằng cách tăng lượng oxy bạn hít vào. Oxy được chứa trong bình và dẫn qua một ống thở đi qua lớp mặt nạ và chèn trực tiếp vào khí quản.
Mở khí quản: trong trường hợp suy hô hấp mạn tính nghiêm trọng, bác sĩ sẽ sử dụng liệu pháp mở khí quản. Bác sĩ đặt một ống dẫn vào khí quản của bạn để bạn có thể thở dễ dàng hơn. Ống được đưa vào bằng cách phẫu thuật tại vị trí trước cổ. Ống dẫn này có thể được đặt tạm thời hoặc vĩnh viễn.
Thông khí cơ học: nếu các phương pháp khác không có hiệu quả, bác sĩ có thể sử dụng máy thở. Máy này bơm oxy thông qua một ống được đặt vào miệng hoặc mũi của bạn và xuống khí quản. Kể từ khi được thông khí, bạn sẽ không tự thở.
- Điều trị bệnh COPD, hen, suy tim và các bệnh gây ra suy hô hấp tích cực và tuân thủ chế độ điều trị nghiêm túc. Không tự động sử dụng oxy khi không có chỉ định của bác sĩ.
Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn phương pháp hỗ trợ điều trị tốt nhất.
Chủ yếu bằng vận động liệu pháp: vỗ rung lồng ngực tiếp theo là tập khạc đờm với cố gắng tối đa, tập hô hấp đúng cách, tận dụng sự hợp tác lực cơ hoành và cơ thành bụng.
Là một phương pháp điều trị chính, lâu dài, dù thăm dò chức năng hô hấp có hay không có phát hiện co thắt phế quản.
Một số Thu*c không có tác dụng, thậm chí nguy hiểm như corticoid (Dexa), Thu*c kích thích hô hấp (vì chỉ làm mệt cơ hô hấp, tăng kích thích).
Rất cần thiết đối với những bệnh nhân cần phải thở oxy liên tục và có chỉ định cụ thể của bác sĩ phải duy trì SpO2 trên 95% cho oxy với lưu lượng thấp 0,5 - 1,5 lít/phút để tránh ức chế trung tâm hô hấp, thường dùng khoảng 1l/phút.
Sự thở oxy này phải được thực hiện đúng kỹ thuật: phải đặt xông mũi họng khá sâu, oxy phải qua một bình nước sạch, được đo lưu lượng chính xác, theo dõi kỹ, tốt nhất là bằng khí máu, lúc đầu đo khí máu 2 lần/tuần, sau đó 1lần/tháng.
Thời gian thở mỗi ngày 18 - 20 giờ/ngày mới bảo đảm được sự bình thường hóa các yếu tố chính như áp lực động mạch phổi.
Bệnh suy hấp mạn tính là hậu quả của các bệnh nội khoa, trong đó nổi bật là các bệnh lý ở phổi, tim và thành ngực. Đây là biểu hiện của giai đoạn muộn rất khó phục hồi. Điều trị giai đoạn này chủ yếu là nâng cao chất lượng cuốc sống, kéo dài tuồi thọ. Để hạn chế tối đa bệnh chuyển sang giai đoạn này, đòi hỏi bệnh nhân phải thật sự tuân thủ nghiêm túc trong quá trình điều trị các bệnh mạn tính dễ dẫn đến tình trạng suy hô hấp như trên.