Béo phì là bệnh thường gặp nhưng hiếm khi tìm thấy nguyên nhân nội tiết. Di truyền là yếu tố quan trọng nhất gây béo phì, khoảng 70% người béo phì là do yếu tố di truyền.
Gen gây béo sản xuất ra leptin, một cytokin do các tế bào mỡ tiết ra nhằm đối phó với sự cất giữ chất mỡ. Khi béo lên, leptin sẽ tác động đến vùng dưới đồi gây chán ăn và tăng tốc độ chuyển hóa. Khi gầy đi, bài tiết leptin giảm xuống. Ở người béo phì, nồng độ leptin tăng bốn lần so với người không béo. Điều này chỉ ra rằng nguyên nhân chính gây béo phì là do sự mát nhậy cảm tương đối của não với leptin.
Nhiều bệnh nội tiết gây béo phì. Hội chứng cushing gây béo trung tâm, mặt tròn và đỏ. Nghiện rượu gây cường cortisol cũng gây hội chứng tương tự. Suy giáp đôi khi gây tăng cân nhẹ, cường giáp cũng có thể gây tăng cân nhẹ do ăn nhiều. U tụy quá tiết insulin gây hạ đường huyết và ăn nhiều bù trừ. Thiếu hụt hormon thường gây béo nhẹ.
Hội chứng X (béo phì trung tâm, đái đường và tăng huyết áp) có 50% trường hợp di truyền. Hội chứng buồng trứng đa nang có sự kết hợp béo phì và không rụng trứng, vô kinh, các nang ở buồng trứng và rậm lông. Tổn thương vùng dưới đồi có thể gây béo phì nặng và đau đầu, ngủ lịm, trầm cảm, đái nhạt và nhược năng giáp.
Béo phì bẩm sinh có thể do hội chứng ít gặp như béo phì dưới đồi, béo phì suy Sinh d*c do giảm hormon hướng Sinh d*c.
Cường giáp có thể gầy sút mặc dù tăng cảm giác thèm ăn. Suy gipas bị sụt cân do giảm thèm ăn. Cushing có thể bị sụt cân do teo cơ.
Tăng ACTH trong Addison gây sạm da do nhiễm sắc tố. Có thai hoặc dùng Thu*c Tr*nh th*i dường uống có thể gây sạm da cân xứng ở môi, trá hoặc gò má và được coi là rám da.
Các bệnh không nội tiết như bệnh Sprue, lắng ddogj sắt mạn tính, dùng chlopromazin kéo dài, ngộ độc arsen và suy dinh dưỡng cũng có thể sạm da.
Chứng dày da gai đen ở cổ, nếp gấp cơ thể có thể gặp ở người. Có thể đi kèm hội chứng kháng insulin nặng tuyp A (suy buồng trứng và rậm lông) hoặc tuyp B (tự miễn). Nó cũng có thể có tính gia đình hoặc phối hợp với béo phì, to đầu chi, bệnh tuyến giáp hoặc buồng rứng đa nang. Chứng gai đen ở người trên 40 tuổi thường là biểu hiện của bệnh ác tính.
Bệnh nhiễm sắc tố sắt mô có thể tăng sắc tố da mầu đồng đen kèm theo rối loạn nội tiết như đái tháo đường.
Thường gặp vú to thời kỳ dậy thì. Vú to nam giới thường gặp ở người già, đặc biệt khi kèm tăng cân. Vú to nam giới có thể là dấu hiệu đầu tiên của u tinh hoàn.
Điêu ftrij vú to nam giới tùy từng trường hợp cụ thể. Vú to thời kỳ dạy thì thường khỏi trong vòng 1 – 2 năm. Vú to do dùng Thu*c sẽ hết khi ngừng Thu*c.
Tiết sữa ngoài thời kỳ cho con bú, cần phải thă khám cẩn thận nếu tiết sữa nhiều hoặc xẩy ra ở phụ nữ chưa sinh đẻ lần nào hoặc đi kèm với vô kinh, đau đầu, bất thường về thị trường hoặc có triệu chứng của bệnh toàn thân.
Rối loạn cương dương là thường gặp, các căn nguyên hay gặp là căn nguyên tâm thần, bất thường nọi tiết, mạch máu hoặc thần kinh. Nó cũng có thể là biểu hiện đầu tiên của bệnh gây tăng prolactin máu. Các nguyên nhân nội tiết khác bao gồm cường giáp, Addison, to đầu chi. Bất lực ở bệnh nhân đái đường do giảm dòng máu đến D**ng v*t hoặc bệnh lý thần kinh tự động. Bệnh lý mạch máu là nguyên nhân gây bất lực ở người già. Bât sluwcj kèm đau cách hồi ở chân gặp trong hội chứng Leriche.
Nhiều loại Thu*c gây bất lực ở mức độ khác nhau. Các chất ức chế tái hấp thu serotonin gây giảm T*nh d*c. Các chất đó và clomipramin còn gây chậm xuất tinh.
Viagra có tác dụng điều trị chứng bất lực, nó không có tác dụng khi bị thiểu năng động mạch D**ng v*t.
Bệnh giòn xương có thể gây gãy xương. Đau xương hoặc cong xương có gợi ý bênh còi xương hoặc nhuyễn xương. Cường cận giáp hoặc bệnh ác tính gây tăng calci máu và đau xương. Đau lưng hoặc gãy xương ở người bị suy Sinh d*c gợi ý bệnh nhân bị loãng xương.
Co rút cơ thường là do chấn thương cơ khi hoạt động thể thao. Chuột rút chân về đêm thường vô căn nhưng cũng có thể do đái đường, parkinson, tổn thương tủy sống và thần kinh trung ương, bệnh về thần kinh cơ, bệnh nhân lọc máu hoặc bệnh nhân điều trị hóa chất.
Nhiều loại Thu*c có thể gây đau cơ chuột rút như cimetidin. Kiềm hóa máu có hể gây rút cơ và tê bì. Chuột rút cơ khi đang đi có thể do thiểu năng mạch máu, cường giáp hoặc nhược giáp.
Đần độn là hậu quả của nhược giáp kéo dài từ khi còn trẻ em, nhược giáp người lớn thường chậm, trầm cảm và ngủ lịm, đôi khi loạn thần.
Hạ đường máu có thể gây lẫn lộn, ngôn ngữ bất thường và thay đổi hành vi và nhân cách cũng như đột ngột mất ý thức hoặc hôn mê.
Thiếu hụt vitamin do suy dinh dưỡng, kém hấp thu và các rối loạn khác có thể gây thay đổi tâm thần.