Ai cũng biết tầm quan trọng của hồng cầu trong máu. Và hẳn nhiên, ai cũng biết việc thiếu thừa hồng cầu là… bất bình thường.
Tuy nhiên, mức độ nguy hiểm của bệnh lý này ra sao thì không phải ai cũng rõ.
Phóng viên Báo Phụ Nữ đã trao đổi với BS Phù Chí Dũng - Giám đốc BV Truyền Máu và huyết học xung quanh
vấn đề này.
Thưa BS, ở người bình thường, chỉ số
hồng cầu cơ bản là bao nhiêu?
- Số lượng
hồng cầu trung bình của người Việt Nam là: nam giới khoảng 4,2 triệu/mm3 và nữ giới
khoảng 3,8 triệu/mm3 máu. Lượng
hồng cầu có thay đổi chút ít trong ngày, thấp lúc ngủ và cao khi
vận động.
hồng cầu ở trẻ sơ sinh cao hơn người lớn, khoảng 5 triệu/mm3, nhưng trong 10 ngày đầu sau
khi trẻ được sinh ra, một số
hồng cầu bị tiêu đi, gây ra tình trạng vàng da S*nh l* trẻ sơ sinh.
Một vài tháng sau,
hồng cầu của trẻ sẽ xấp xỉ của người trưởng thành.
Đời sống trung bình của
hồng cầu trong máu ngoại vi khoảng 100-120 ngày.
hồng cầu già sẽ tiêu
hủy bởi các đại thực bào trong tủy xương, gan, lách.
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thì thiếu máu là tình trạng giảm lượng huyết sắc
tố lưu hành trong máu ngoại vi so với người bình thường cùng giới, cùng lứa tuổi, cùng một
môitrường sống.
Chức năng, nhiệm vụ của
hồng cầu trong "hệ máu" ra sao?
-
hồng cầu hay huyết cầu tố là loại tế bào máu có chức năng chính là hô hấp, chuyên chở
hemoglobin, qua đó đưa oxy từ phổi đến các mô do phân tử huyết cầu tố có thể dễ dàng thích hợp với
oxy. Bên cạnh đó,
hồng cầu có chức năng điều hòa cân bằng kiềm toan trong cơ thể. Hemoglobin trong
hồng cầu thực hiện vai trò như một hệ thống đệm quan trọng trong cơ thể.
Bệnh thiếu máu (
hồng cầu) có di truyền không? Có ngăn ngừa được không?
- Có nhiều nguyên nhân gây bệnh thiếu máu (
hồng cầu), trong đó có thiếu máu do di truyền do bất
thường màng
hồng cầu, bất thường huyết sắc tố hoặc do thiếu men. Bệnh thiếu máu do di truyền chưa
thể phòng ngừa, ngoài việc kiểm tra chồng, vợ hay bào thai giúp chỉ dẫn họ về xác suất con cái họ
có mang mầm bệnh hay bị bệnh nặng không.
Việc điều trị tùy theo từng loại bệnh thiếu máu di truyền. Đối với bệnh thiếu máu do bất thường
huyết sắc tố, cần truyền máu thường xuyên và theo dõi vấn đề ứ sắt để giảm bớt những biến chứng của
bệnh. Trong trường hợp thiếu máu di truyền do thiếu men G6PD, bệnh nhân sẽ được hướng dẫn danh sách
các Thu*c nguy hiểm không nên dùng và cần tránh một số thức ăn...
Có phương pháp nào để giúp "sản sinh" ra
hồng cầu? Dinh dưỡng có ảnh hưởng gì tới việc
này hay không?
Cơ thể cần một số vitamin, khoáng chất và chất dinh dưỡng để tạo ra đủ
hồng cầu. Sắt, vitamin
B12 và axít folic là ba yếu tố quan trọng nhất. Cơ thể có thể không có đủ các chất dinh dưỡng
do:
Những thay đổi trong niêm mạc dạ dày hoặc ruột ảnh hưởng đến hấp thu các chất dinh dưỡng (ví
dụ, bệnh celiac).
- Ăn uống không đầy đủ.
- Mất máu từ từ (ví dụ, kinh nguyệt nhiều hoặc loét dạ dày).
- Phẫu thuật loại bỏ một phần của dạ dày hoặc ruột.
Vì vậy, điều trị thiếu máu ngoài việc truyền máu để đảm bảo vận chuyển oxy, một số trường hợp
thiếu máu do thiếu chất như thiếu máu do thiếu sắt hoặc do thiếu axít folic và/hoặc vitamin B12 thì
ngoài việc uống bổ sung viên sắt, axít folic, vitamin B12, cần phải chú trọng thêm về vấn đề dinh
dưỡng bằng cách cải thiện bữa ăn: lựa chọn thực phẩm giàu sắt cho bữa ăn gia đình.
Đó gồm: các loại
ốc; các loại thịt như thịt bò, lợn, gan lợn, tiết lợn; cá ngừ; lòng đỏ trứng; các loại rau như dền,
ngót, muống... và các loại đậu. Dùng thêm nước mắm, bánh... có bổ sung chất sắt.
Đa
hồng cầu (ĐHC) là bệnh gì?
Bệnh ĐHC là trường hợp số lượng
hồng cầu trong máu vượt quá mức bình thường. Nguyên nhân: chia
làm hai loại:
- ĐHC nguyên phát: do bệnh lý tại cơ quan tạo máu, đây là một dạng bệnh lý ác tính.
- ĐHC thứ phát, ví dụ: sự sụt giảm oxy trong bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, người sống ở vùng đồi
núi cao, bệnh lý tim mạch như suy tim, tim bẩm sinh...
Trong đó, ĐHC nguyên phát thuộc nhóm các bệnh tăng sinh tủy mạn ác tính, là một nhóm bệnh ác
tính hệ tạo máu thường gặp. Đặc điểm chung của nhóm bệnh lý này là diễn biến mạn tính, lách to kèm
theo tăng một hoặc nhiều dòng tế bào tủy.
ĐHC tiến triển bệnh rất chậm, người bệnh có thể sống "bình yên" bao lâu cho đến khi
bệnh bộc phát?
- ĐHC nguyên phát có tiên lượng tương đối tốt. Nhưng nếu không điều trị, thời gian sống trung
bình chỉ từ 6 đến 18 tháng. Nếu có điều trị, thời gian sống trung bình 10 - 20 năm. Nguyên nhân tử
vong chủ yếu là do tắc mạch, tai biến mạch máu não do tăng huyết áp. Những nguyên nhân gây Tu vong
khác là chuyển dạng bệnh bạch cầu cấp hoặc đến giai đoạn kiệt tủy.
Bệnh ĐHC có thể điều trị dứt điểm được không? Có phòng ngừa được không?
Bệnh ĐHC không thể điều trị dứt điểm được. Ngày nay, trích máu và dùng Thu*c nhằm làm giảm số
lượng
hồng cầu trong máu vẫn là hai phương pháp chính để điềutrị bệnh:
- Rút máu: áp dụng với các bệnh nhân trẻ tuổi hoặc ở thể nhẹ. Tuy nhiên, việc rút máu sẽ làm
tăng nguy cơ thiếu sắt, không kiểm soát được số lượng tiểu cầu và có thể gây ra một vài rối loạn
huyết động ở một vài người.
- Dùng Thu*c: khi liệu pháp rút máu không thể áp dụng, người ta sẽ sử dụng đến Thu*c. Hiện nay,
có ba loại Thu*c chính: Hydroxyurea, Interferon và Anagrelide. Các loại Thu*c trên đều có những quy
tắc sử dụng nhất định, có loại còn có tác dụng phụ trong quá trình sử dụng, do đó, người bệnh cần
tuân theo sự hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa.
Hiện nay, chưa có phương pháp nào phòng bệnh hiệu quả, có chăng chỉ là việc duy trì lối sống
khỏe mạnh để máu không bị nghẽn mạch mà thôi.
Như vậy, thiếu
hồng cầu và đa
hồng cầu, bệnh nào nguy hiểm hơn?
- Bệnh nào cũng có thể gây ra những biến chứng nghiêm trọng hoặc ảnh hưởng chất lượng sống nên
không thể nói được bệnh nào nguy hiểm hay dễ phòng ngừa và điều trị hơn. Nếu mắc phải một trong
những chứng bệnh trên, cần phải đi khám ngay để được xác định, chẩn đoán và có hướng điều trị tiếp
theo.
Xin cám ơn BS.
Theo Thiên Nga - Phụ nữ TPHCM