Máu trắng: Nguyên nhân, triệu chứng và phương pháp điều trị
Bệnh máu trắng hay còn gọi là bệnh bạch cầu là một kiểu ung thư.
Ung thư là một nhóm hơn 100 bệnh có hai điều quan trọng. Một là những tế bào nhất định trong cơ thể trở thành dị thường. Điều nữa là thân thể tiếp tục sản sinh số lượng lớn những tế bào dị thường này.
Bệnh máu trắng là ung thư của những tế bào máu. Mỗi năm, gần như 27,000 người lớn
và hơn 2,000 trẻ con ở Hoa Kỳ biết bị bệnh bạch cầu. Để hiểu bệnh bạch cầu, thật có
ích khi ta biết về những tế bào máu bình thường và cái gì xảy ra với chúng khi bệnh
bạch cầu phát triển.
Khi bệnh bạch cầu phát triển, cơ thể sản sinh một số lớn những tế bào máu bất thường.
Trong đa số các kiểu bệnh ung thư máu, những tế bào dị thường là những bạch cầu. Tế
bào bệnh bạch cầu (thông thường nhìn khác với tế bào máu bình thường và chúng không
thực hiện đúng chức năng của chúng).
Nguyên nhân gây bệnh máu trắng
Cho đến hiện nay, chúng ta vẫn chưa biết nguyên nhân vì sao gây ra ung thư máu. Những nhà nghiên
cứu đang cố gắng giải quyết vấn đề này. Những nghiên cứu cho thấy rằng, ung thư máu thường
gặp ở nam hơn nữ và những người da trắng thường mắc bệnh hơn những người da đen. Tuy nhiên,
người ta vẫn chưa thể giải thích tại sao người này thì bị còn người kia lại không.
Qua việc nghiên cứu số lượng lớn người trên khắp thế giới, những nhà nghiên cứu đã tìm
thấy những yếu tố nguy cơ nhất định làm tăng nguy cơ phát triển bệnh bạch cầu. Ví dụ,
sự tiếp xúc với một lượng lớn bức xạ năng lượng cao sẽ làm tăng nguy cơ bị bệnh bạch
cầu.
Các chất phóng xạ này thường được sản sinh sau vụ nổ bơm nguyên tử ở Nhật Bản trong thời
gian chiến tranh Thế Giới thứ 2. Trong những nhà máy năng lượng hạt nhân, những quy tắc
an toàn tuyệt đối nhằm bảo vệ công nhân và cộng đồng tránh tiếp xúc với khối lượng bức xạ
có hại.
Nghiên cứu gợi ý rằng sự tiếp xúc trong những lĩnh vực điện từ là một yếu tố nguy
cho bệnh bạch cầu (những lĩnh vực điện từ là một kiểu của bức xạ năng lượng thấp
đến từ dây điện và thiết bị điện). Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu hơn cần thiết để chứng
minh mối liên kết này.
Một số tình trạng di truyền có thể tăng thêm nguy cơ cho bệnh bạch cầu. Đó là hội chứng
Down. Trẻ con sinh ra với hội chứng này có bệnh bạch cầu cao hơn so với trẻ khác.
Những công nhân tiếp xúc với hóa chất nhất định, trong cả một thời kỳ dài sẽ có nguy cơ
cao bị ung thư máu. Benzen là một trong số hóa chất này. Đồng thời, vài Thu*c sử dụng
điều trị các loại ung thư khác có thể tăng thêm nguy cơ cho con người phát triển bệnh bạch
cầu. Tuy nhiên, nguy cơ này rất nhỏ so với lợi ích mà mà hoá trị liệu mang lại.
Các nhà khoa học đã xác định được loại virut có khả năng làm tăng thêm nguy cơ mắc ung thư
máu. Những nhà khoa học khắp thế giới tiếp tục nghiên cứu virut và nguy cơ có thể khác
cho bệnh bạch cầu. Bằng việc nghiên cứu vì sau bị ung thư máu, từ đó các nhà khoa học hy
vọng hiểu rõ hơn phương pháp để ngăn chặn và điều trị bệnh bạch cầu.
Các loại bệnh máu trắng
Có vài loại bệnh bạch cầu. Chúng được sắp xếp lại theo hai cách. Một cách là theo
sự phát triển nhanh chóng ra sao và tồi tệ đi như thế nào. Cách khác bởi kiểu tế bào
máu bị ảnh hưởng.
Bệnh bạch cầu hoặc là cấp hoặc kinh niên. Trong bệnh bạch cầu cấp, những tế bào máu
dị thường là những tế bào non còn lưu giữ đặc tính chưa trưởng thành và không thể
thực hiện những chức năng bình thường của chúng. Số lượng của tế bào non tăng thêm
nhanh chóng, và bệnh trở thành xấu hơn đi nhanh chóng.
Trong bệnh bạch cầu kinh niên, một số tế bào non có mặt, nhưng nói chung, những tế bào
này thì đã trưởng thành hơn và có thể thực hiện một số chức năngbình thường của
chúng. Bệnh bạch cầu có thể xuất hiện trong cả hai kiểu bạch cầu chính: những tế
bào bạch huyết hoặc những tế bào tủy.
Khi bệnh bạch cầu ảnh hưởng những tế bào
bạch huyết, nó được gọi bệnh bạch cầu tế bào lymphô. Khi những tế bào tủy bị ảnh
hưởng, bệnh được gọi tủy xương hoặc bệnh bạch cầu tạo tủy.
Đây là những kiểu chung nhất của bệnh bạch cầu :
- Bệnh bạch cầu dòng lympho cấp là thể thường gặp nhất của bệnh bạch cầu ở trẻ em.
Bệnh này cũng gây ra ở người lớn, đặc biệt là ở tuổi 65 hoặc già hơn.
- Bệnh bạch cầu dòng tuỷ hầu hết thường ảnh hưởng đến người lớn tuổi hơn 55. Nó
thường xảy ra ở người trẻ hơn, nhưng hầu như không bao giờ gây bệnh ở trẻ em.
- Bệnh bạch cầu dòng tuỷ mạn chủ yếu xảy ra ở người lớn. Rất ít trẻ em phát triển
bệnh này.
- Bệnh bạch cầu tế bào lông là một thể không binh thường của bệnh bạch cầu mạn. Thể
loại này và loại bất thường khác của bệnh bạch cầu không được bàn đến ở đây. Dịch
vụ thông tin ung thư có thể cung cấp thông tin về chúng.
Bệnh này cũng ảnh hưởng đến người lớn, đặc biệt những người tuổi 65 và già hơn.
Các triệu chứng của bệnh máu trắng
Những tế bào bệnh bạch cầu là dị thường không thể làm việc bình thường mà những tế
bào máu làm. Chúng không thể giúp đỡ cơ thể đấu tranh chống lại bệnh truyền nhiễm.
Vì lý do này, những người mắc bệnh bạch cầu thường dễ bị nhiễm trùng và sốt.
Đồng thời, những người bị bệnh bạch cầu thường có số lượng hồng cầu và tiểu cầu ít hơn
người bình thường. Kết quả là không có đủ hồng cầu để mang oxy tới khắp các cơ quan trong
cơ thể. Điều kiện này, được gọi là sự thiếu máu, những bệnh nhân có thể trông nhợt
nhạt và cảm thấy yếu và mệt. Khi không có đủ tiểu cầu, người bệnh dễ bị chảy máu, bầm tím
da.
Như tất cả các tế bào máu, những tế bào bệnh bạch cầu cũng đi khắp cơ thể. Phụ thuộc
vào số lượng tế bào dị thường và nơi mà những tế bào này tập trung, những bệnh
nhân bệnh bạch cầu có thể có một số triệu chứng.
Trong bệnh bạch cầu cấp, những triệu chứng xuất hiện và trở nên tồi hơn nhanh chóng.
Những người mắc bệnh này thường đến khám bác sĩ vì họ cảm thấy ốm đi nhanh chóng. Trong bệnh
bạch cầu kinh niên, những triệu chứng có thể không xuất hiện trong một thời gian dài.
Khi những triệu chứng xuất hiện, lúc đầu nhẹ, sau đó xấu dần đi. Bác sĩ phát hiện bệnh bạch
cầu kinh niên khi khám và làm xét nghiệm máu thường qui, mặc dù trước dóngười bệnh không có
bất kỳ những triệu chứng nào.
Các triệu chứng chung của bệnh máu trắng (bệnh bạch cầu):
- Sốt, rét run, và triệu chứng giống như cảm cúm khác.
- Yếu và mệt.
- Bị nhiễm trùng thường xuyên.
- Kém ăn và giảm cân.
- Sưng đau hạch bạch huyết, gan, lách to.
- Bầm tím và chảy máu dễ dàng.
- Sưng và chảy máu chân răng.
- Vã mồ hôi , đặc biệt là về đêm.
- Đau khớp và xương.
Trong bệnh bạch cầu cấp, tế bào bất thường có thể tập trung trong não hoặc tủy sống
(cũng được gọi là hệ thần kinh trung ương). Kết quả có thể là những bệnh nhức đầu,
nôn, lú lẫn, mất kiểm soát cơ bắp, và co giật.
Trong bệnh bạch cầu, tế bào cũng có
thể tập hợp ở tinh hoàn và gây sưng to. Một số bệnh nhân than đau ở mắt hoặc trên da. Bệnh
bạch cầu cũng có thể ảnh hưởng bộ máy tiêu hóa, thận, phổi, hoặc những bộ phận
khác của cơ thể.
Trong bệnh bạch cầu kinh niên, những tế bào máu dị thường có thể từ từ tập hợp trong
nhiều bộ phận của thân thể. Bệnh bạch cầu kinh niên có thể ảnh hưởng da, hệ thần kinh
trung ương, bộ máy tiêu hóa, thận, và tinh hoàn.
Điều trị máu trắng và tác dụng phụ
Việc điều trị ung thư máu sẽ phá hủy cả tế bào ung thư máu và tế bào bình thường. Kiểm soát để hạn
chế tác động của Thu*c lên tế bào bình thường chỉ còn tác động lên tế bào ung thư máu để giảm tác
dụng phụ của Thu*c là một việc rất khó thực hiện.
Ðiều trị ung thư có rất nhiều tác dụng phụ. Chúng phụ thuộc chủ yếu vào loại phác đồ cũng như thời
gian điều trị. Mỗi người sẽ có những phản ứng khác nhau và thậm chí trên cùng một bệnh nhân phản
ứng phụ ở đợt điều trị này có thể khác những đợt khác. Nỗ lực của các nhà chuyên môn là giảm tác
dụng phụ đến mức tối thiểu.
Các bác sĩ và y tá có thể giải thích những tác dụng phụ cho bệnh nhân biết và hướng dẫn họ thay đổi
Thu*c, chế độ ăn uống hay các biện pháp nào khác để đối phó. Ðiều trị bệnh bạch cầu cấp bằng
Thu*c
Tác dụng phụ của hoá trị liệu phụ thuộc chủ yếu vào loại Thu*c bệnh nhân sử dụng. Ngoài ra, cũng
như các phương pháp trị liệu khác, tác dụng phụ ở mỗi người sẽ khác nhau. Thường thì Thu*c chống
ung thư tác động lên các tế bào đang trong giai đoạn phân chia.
Các tế bào ung thư có đặc điểm phân
chia nhiều hơn tế bào bình thường nên bị tác động bởi hoá trị liệu nhiều hơn. Tuy nhiên một số tế
bào bình thường cũng bị phá huỷ. Các tế bào thường hay phân chia gồm tế bào máu; tế bào ở gốc lông,
tóc hay ở đường tiêu hoá thường dễ bị phá huỷ.
Khi hoá trị liệu ảnh hưởng lên tế bào bình thường nó
sẽ làm giảm sức đề kháng của bệnh nhân đối với tình trạng nhiễm trùng và bệnh nhân có thể mất năng
lượng và dễ bị bầm tím hay chảy máu. Ða số các tác dụng phụ sẽ hết từ từ trong giai đoạn hồi phục
giữa các đợt điều trị và sau khi ngưng điều trị.
Một số loại Thu*c chống ung thư có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của bệnh nhân. Kinh nguyệt
có thể bị rối loạn hay ngưng hẳn và phụ nữ có thể bị triệu chứng mãn kinh như những cơn nóng bừng
và khô *m đ*o. Nam giới có thể ngưng tạo tinh trùng.
Vì các biến đổi này có thể là vĩnh viễn nên
một số đàn ông chọn cách giữ tinh trùng đông lạnh. Hầu hết trẻ em được điều trị ung thư máu có khả
năng sinh sản bình thường khi chúng lớn lên. Tuy nhiên tuỳ theo loại Thu*c và liều lượng sử dụng
cũng như tuổi mà một số trẻ em trai và gái không thể có con khi họ trưởng thành.
Xạ trị
Bệnh nhân bị xạ trị có thể rất mệt mỏi cho nên nghỉ ngơi là quan trọng nhưng các bác sĩ lại khuyên
bệnh nhân vẫn duy trì hoạt động như trước.
Khi được xạ trị trực tiếp lên đầu thì bệnh nhân thường bị rụng tóc. Xạ trị có thể làm cho da đầu
tại vùng chiếu xạ bị đỏ, khô, giòn và ngứa. Bệnh nhân nên được hướng dẫn cách chăm sóc da đầu sạch
sẽ. Họ không nên sử dụng bất cứ loại nước hoa hay kem thoa lên vùng da chiếu xạ mà không tham khảo
ý kiến của bác sĩ.
Xạ trị có thể gây buồn nôn, nôn và mất cảm giác ngon miệng. Những tác dụng phụ
này là tạm thời và các bác sĩ và y tá có thể đề nghị cách kiểm soát chúng cho đến khi hoàn tất điều
trị. Tuy nhiên một số tác dụng phụ có thể kéo dài.
Trẻ em (mà đặc biệt là những trẻ nhỏ tuổi) được chiếu xạ ở não có thể ảnh hưởng đến việc học tập.
Vì lý do này mà các bác sĩ sử dụng liều xạ trị thấp nhất có thể được và chỉ áp dụng cho những trẻ
không thể điều trị bằng hoá trị đơn lẻ. Xạ trị tinh hoàn có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản
cũng như việc sản xuất hormon. Hầu hết những bé trai bị xạ trị tinh hoàn không thể có con sau này
và trẻ cần phải sử dụng hormon thay thế.
Ghép tuỷ xương
Bệnh nhân ghép tuỷ xương đối diện với nguy cơ nhiễm trùng, chảy máu và các tác dụng khác do được
hoá trị và xạ trị với một liều lượng lớn.
Ngoài ra bệnh ký chủ thải ghép có thể xảy ra ở người nhận tuỷ ghép từ một người khác cho. Trong
bệnh này tuỷ của người cho phản ứng chống lại mô của ký chủ (thường là gan, da và đường tiêu hoá).
Bệnh này có thể từ mức độ nhẹ đến trầm trọng và có thể xảy ra vào bất cứ thời điểm nào sau khi ghép
(thập chí vài năm sau). Có thể cho Thu*c để làm giảm nguy cơ bệnh này và điều trị những biến chứng
do nó gây ra.
Theo Sức khỏe 365
Mạng Y Tế
Nguồn: Alo bác sĩ (http://alobacsi.com/mau-trang-nguyen-nhan-trieu-chung-va-phuong-phap-dieu-tri-n200472.html)