Hen phế quản: Là tình trạng khó thở do phế quản bị co thắt. Tuy y- sinh học đã phát triển và đã tiêu chuẩn hóa chẩn đoán hen phế quản nhưng việc điều trị hiện nay còn nhiều khó khăn.
Tỷ lệ mắc bệnh ở Việt Nam là 4%, trên thế giới là 6%. Nguyên nhân bệnh phần lớn do dị ứng , viêm phế quản mạn tính.
Đặc điểm lâm sàng: cơn khó thở ở thì thở ra, hay tái phát, khò khè, khạc đờm trong quánh (đờm hạt trai).
Bệnh sinh: hậu qủa của phản ứng dị ứng giữa kháng nguyên và kháng thể IgE; tế bào Mastocyt gắn nhiều kháng thể (tế bào hạt), chứa nhiều chất trung gian hoá học khi phản ứng kháng nguyên - kháng thể dẫn đến tế bào bị kích thích vỡ hạt và giải phóng ra chất trung gian hoá học (như: histamin, SRS - A, ECF - A; PAF...). Các chất này kích thích trực tiếp niêm mạc hoặc gián tiếp qua phản xạ phó giao cảm gây co thắt cơ trơn phế quản, phù và tăng tiết.
Hen phế quản dị ứng (90% ở tuổi < 30, 50% tuổi > 40). Do hít phải nấm, bụi nhà: ở Việt Nam nguyên nhân do bụi chiếm tới 60% trong số các nguyên nhân.
Do nhiễm khuẩn: nhiễm khuẩn đường hô hấp trên và dưới, do cảm cúm (influenza); ở trẻ em thường do Rhinovirus, Adenovirus, Parainflueuza.
Di truyền, hệ thần kinh không ổn định, tăng quá mẫn phế quản. Trong viêm xoang, có chửa dễ làm bệnh nặng lên.
Y học cổ truyền mô tả bệnh trong các phạm trù “háo chứng, suyễn chứng, ẩm chứng”; đa phần do đàm túc ở trong (nội túc đàm yếm ở phế), phục tà, tân ngoại cảm lục dâm, tình chí nội thương, ẩm thực hoặc lao quyện làm cho tà tụ ở phế, phế khí thượng nghịch mà dẫn đến bệnh. Dựa vào căn nguyên gây bệnh, y học cổ truyền chia ra làm 3 loại:
Hợp tà nội ngoại: đàm trọc nội yếm, phục thụ ngoại cảm, nội ngoại hợp tà, tụ tắc khí đạo, phế mất tuyên giáng dẫn đến khí cấp suyễn súc.
Phế tỳ khí hư, tỳ mất kiện vận, đàm thấp nội sinh, phế khí bất tuyên đàm trọc tụ phế dẫn đến suyễn súc khí cấp.
Thận phế dương hư: thận dương hư tắc mệnh môn hỏa suy, bất năng thượng phế vu tâm, (thủy hoả ký tế) tắc tâm - dương thụ lụy. Phế hư bất năng trị tiết, tắc khí - huyết vận hành thất điều mà dẫn đến thoát.
Bệnh xảy ra khi tiếp xúc với các nguyên nhân : với phấn hoa, bụi nhà hoặc có viêm nhiễm đường hô hấp trên và có liên quan đến thời tiết (đa số phát bệnh vào mùa xuân thu).
Chứng trạng và bản chứng có tam lãm “Tam chứng” rõ, hô hấp khó khăn, khó thở, nghe phổi có tạp âm bệnh lý.
Xét nghiệm: thời kỳ phát bệnh, trong máu có tế bào ái toan tăng cao; khi viêm nhiễm thì bạch cầu tăng nhiều; trong huyết thanh hàm lượng kháng thể IgE tăng cao; trong dịch đàm có thể thấy nhiều hạ khoa lôi động kết tinh (tế bào hạt).
Hô hấp khí súc, trong họng khò khè, hung cách bí mãn như tắc, ho khạc nhiều, đàm ít khó khạc; sắc mặt xanh bủng, miệng không khát hoặc khát , thích uống nước ấm; trời lạnh và cảm lạnh dễ phát bệnh; hình hàn, sợ lạnh; chất lưỡi nhợt hồng, rêu lưỡi trắng nhờn; mạch huyền khẩn hoặc phù khẩn.
Nếu thuộc chứng lý ẩm biểu hàn, dịch đàm xanh lỏng nhiều bọt thì gia thêm: tế tân 10g, can khương 12g.
Thở thô khò khè, hung bĩ, khí súc, đờm đặc màu vàng dính đục, khó khạc; phiền táo bất an; hãn xuất mặt đỏ, họng khô, miệng đắng, khát , thích uống nước mát; đại tiện bí kết; chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng trắng xen kẽ nhờn; mạch hoạt sác.
Suyễn nghịch nặng, khó thở không nằm ngủ được; đàm ứ trở, tâm quí, phiền táo bất an, tức ngực; mặt môi xanh tím, hãn xuất chi lạnh; mạch phù đại vô căn, thậm chí mạch vi muốn tuyệt.
Tự hãn, sợ gió, thường dễ cảm mạo, bệnh tái phát khi thời tiết thay đổi. Trước khi lên cơn thường chảy nước mũi trong, lỏng; tắc mũi; khí đoản, âm thanh nhỏ, nói khàn, trong hầu thường có “thuỷ kế thanh” mức độ nhẹ, ho khạc đờm trắng, sắc mặt trắng sáng, chất lưỡi nhợt hồng, rêu lưỡi trắng mỏng; mạch tế nhược hoặc là hư nhuyễn.
Ăn kém, bụng chướng, đại tiện lỏng hoặc ăn chất dầu, chất nhờn dễ bị đi lỏng, thường nhân khi ăn uống bất thường mà dẫn đến phát cơn; mệt mỏi, thiếu lực, khí đoản bất túc, ngôn thanh nhỏ yếu; chất lưỡi nhợt hoặc hình thể lưỡi bệu to, rêu lưỡi nhờn trắng nhuận; mạch hư nhược.
Trần bì 10g Chế bán hạ 10g Đẳng sâm 15 - 30g Bạch truật 12g Phục linh Sinh khương 3 - 5 lát Đại táo: 7 qủa
Tự nhiên khí đoản tức súc, vận động thì bệnh tăng lên; tâm hoả, huyễn vựng, tai ù, lưng gối đau mỏi; sau lao luỵ dễ tái phát hen suyễn; sợ lạnh, chi lạnh, tự hãn, sắc mặt trắng sáng; lưỡi nhợt, thể lưỡi bệu mềm rìa lưỡi có hằn răng; mạch trầm tế hoặc huyền hồng.Nếu tự hãn, ngũ tâm phiền nhiệt, lưỡi đỏ ít rêu ; mạch sác vô lực là khí - thận lưỡng hư.
Chế phụ phiến (trước) 12g Nhục quế 10g Thục địa 15g Sơn thù du 12g Hoài sơn dược 20g Phục linh 15g Đan bì 6g Trạch tả 10g Hồng sâm 10g Bột cáp giới 5g.
Nếu dương hư rõ thì gia thêm: bổ cốt chỉ 10g, tiên linh tỳ 15g, lộc giác phiến 5g. . Nếu thận âm hao hư nặng thì bỏ đi các vị Thu*c ôn bổ; gia thêm: mạch môn đông 30g, đương qui 10g, qui bản 10g.
Thường dùng các huyệt: định suyễn, đản trung, phế du, đại truỳ, hợp cốc.
Nếu phế hư sợ lạnh thì thêm: túc tam lý, thận du.
Dùng các huyệt: bình suyễn, tuyến thượng thận, giao cảm. Có thể dùng vương bất lưu hành tử để áp huyệt.
Dùng các huyệt: định suyễn, 2 huyệt phế du, 2 huyệt phong long, đản trung. Mỗi lần 1- 2 huyệt có tác dụng khống chế cơn hen tái phát, dự phòng có hiệu quả nhất định.
Tất cả tán bột nhỏ mịn, thêm xạ hương 6g, hoà với nước gừng rồi đắp vào các huyệt: phế du, cao hoang, bạch lao, sau 1 - 2h thì bỏ đi ; 10 ngày đắp 1 lần; 7 lần là một liệu trình.
Tạo giác 15g, sắc tẩm vào 30g bạch giới tử; sau 12h đem phơi khô; mỗi lần uống 1 - 1,5g; mỗi ngày uống 3 lần. Điều trị cho bệnh nhân khi lên cơn hen suyễn mà có đàm thũng, khí nghịch.
Theo tài liệu của Dụ Kỳ: dùng “ma hoàng địa long thang” để điều trị , 53 bệnh nhân hen phế quản đã đạt kết quả mãn ý. Bài Thu*c gồm có:
Ma hoàng 10g Hạnh nhân 10g Triết bối mẫu 10g Đan sâm 10g Hậu phác 10g Tô tử 10g Chích tang bạch bì 10g Địa long 30g Cam thảo 3g Bạch thảo 10 quả.
Nếu ngoan đàm giao cô thì thêm tạo hiệp đình; trung khí hư thì gia thêm: hoàng kỳ, đẳng sâm, bạch truật.
Nếu hen nhiệt thì gia thêm: thạch cao, ngư tinh thảo mỗi thứ đều 30g; hoàng cầm, đởm tinh mỗi thứ đều 10g.
Kết quả: Khống chế hen hoàn toàn trên lâm sàng sau 1 tháng trở lên: 25 ca tốt; cải thiện 7, không hiệu quả 4. Tổng số hiệu quả 92,5% (1995).
Bài Thu*c theo dẫn liệu của Vương Kỳ điều trị cho 374 bệnh nhân hen phế quản: khỏi 269 (70,2%), chuyển biến tốt 102 (28,9%), không hiệu quả 3 (0,9%).
Hải cảo, quế chi, xích thược, bán hạ, hạnh nhân mỗi thứ đều 15g. - Chế xuyên ô, ma hoàng, can khương, tế tân, ngũ vị tử, chế nam tinh, bách bộ mỗi thứ đều 10g.
Bá thụ quả 30 (viên) 2 ngày 1 thang, sắc nước uống; 1 tháng là 1 liệu trình, 3 liệu trình 3 tháng (Vương Diên Lập, Trung y Tứ Xuyên 1995).
Nếu hen hàn phải gia thêm: can khương, tế tân; huyết ứ thì gia thêm: xích thược, xuyên khung; phát sốt thì gia thêm: sài hồ, ngư tinh thảo.
Sắc uống ngày 1 thang, 2 tuần là 1 liệu trình. Đạt kết quả 89,4% (Đỗ Lập Phong, Trung y Thiểm tây 1995).
Thể âm hư phế táo: tang bạch bì, tô tử, thiên hoa phấn, đông qua tử, chích ma hoàng, hạnh nhân, địa long, thạch cao, thục địa, hoài sơn, cam thảo. Nếu ho thì gia thêm: bách bộ, khoản đông hoa. Nếu đại tiện bế phải gia thêm: đại xích thạch, sinh đại hoàng; hay giận dữ thì gia thêm: hương phụ, bạch thược.
Thể tỳ hư đàm thấp: tô tử, hạnh nhân, đẳng sâm, phục linh, bạch truật, trần bì, bán hạ, tử uyển, khoản đông hoa, chích ma hoàng, thục địa, sơn dược. Nếu có dau lưng nặng thì gia thêm: hoàng kỳ, cẩu tích, can khương.
Thể thận hư, phế thực: thục địa, sơn dược, phục linh, ngũ vị tử, bổ cốt chỉ, tô tử, mạch đông, đương qui , nhân sâm, hạnh nhân.
Chủ đề liên quan:
chi khí quản háo suyễn cổ truyền điều trị hen phế quản phế quản truyền y học y học cổ y học cổ truyền