Ngoại Tim mạch hôm nay

Phẫu thuật tim mạch là nhiệm vụ chính trong việc khám, điều trị và can thiệp tim mạch, lồng ngực và các mạch máu ngoại vi bằng phương pháp ngoại khoa như nội soi, mổ phanh truyền thống, phẫu thuật can thiệp. Khoa ngoại tim mạch chuyên về điều trị các bệnh lý ngoại khoa có liên quan đến vấn đề lồng ngực - tim mạch như tim bẩm sinh, suy tim, phình động mạch, tổn thương/chấn thương thành ngực, phổi và các cơ quan trong lồng ngực như: gãy xương sườn, xương ức, thủng thành ngực, tổn thương các cơ quan tim, phổi, mạch máu,...

Dinh dưỡng trong bệnh lý tim mạch

Việc thay đổi số lượng cũng như thành phần các chất dinh dưỡng có trong khẩu phần ăn đều có ảnh hưởng đến tăng hay giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Ảnh minh họa. Nguồn: centro-igea.com

Tại Việt Nam, bên cạnh bệnh thấp tim và các bệnh van tim do thấp còn chiếm khá cao, các bệnh lý mạch vành, tai biến mạch máu não, bệnh động mạch ngọai vi và phình động mạch chủ ngực, bụng đang trở thành nhóm bệnh chính gây Tu vong.

Có nhiều yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch được xác định, nhưng phần lớn tập trung vào chế độ ăn và lối sống. Các yếu tố nguy cơ chính bao gồm hút Thu*c lá, thừa cân và béo phì, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, tiểu đường và lối sống ít vận động.

Các yếu tố nguy cơ có khuynh hướng xuất hiện cùng nhau và tác động cộng hưởng. Những người có nhiều yếu tố nguy cơ thì khả năng xuất hiện các biến cố tim mạch sẽ cao hơn nhiều. Những yếu tố nguy cơ này có thể thay đổi và kiểm soát được, như ngừng hút Thu*c lá, kiểm soát huyết áp, điều chỉnh rối loạn mỡ máu, kiểm soát cân nặng, tăng cường vận động,… trong đó điều chỉnh chế độ ăn vẫn luôn là nền tảng trong việc phòng và điều trị bệnh.

Theo các nghiên cứu cho thấy việc thay đổi số lượng cũng như thành phần các chất dinh dưỡng (chất đa lượng, chất vi lượng) có trong khẩu phần ăn đều có ảnh hưởng đến tăng hay giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch bao gồm các yếu tố sau:

Tổng năng lượng

Hiện nay, khoa học đã chứng minh béo phì là một yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch. Đồng thời sự phân bố mỡ trong cơ thể cũng là một yếu tố nguy cơ quan trọng, người béo bụng có nguy cơ cao nhất. Để đánh giá mức độ béo phì, người ta dựa vào chỉ số BMI, được gọi là chỉ số khối, tính bằng trọng lượng cơ thể chia cho bình phương chiều cao (kg/m2).

Những người béo phì ảnh hưởng đáng kể tới suy tim, nguy cơ suy tim tăng gấp đôi ở những bệnh nhân béo phì (BMI >= 30kg/m2) so với người không béo phì. Vì vậy người có cân nặng cao hơn sẽ có tỉ lệ Tu vong cao hơn so với người có cân nặng thấp. Nên giảm cân là rất cần thiết đối với người béo phì và duy trì cân nặng ở mức BMI từ 18,5 đến 24,9 kg/m2.

Để có thể giảm cân người béo phì cần có chế độ ăn kiêng hợp lý và tập luyện phù hợp cho từng cá nhân. Giảm năng lượng nhập vào là phương pháp chính trong điều trị béo phì. Một chế độ ăn với năng lượng giảm từ 500 - 1000 kcal trong ngày giúp làm giảm từ 0,5 - 1 kg trong vòng 1 tuần. Các khuyến nghị gần đây khuyên nên giảm mức năng lượng nhập vào ở mức độ vừa phải nhằm giảm cân từ từ, cho đến khi đạt được và duy trì cân bằng năng lượng để duy trì cân nặng mong muốn.

Chất béo (lipid)

Số lượng và loại chất béo đều quan trọng. Theo khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng tổng lượng chất béo nên từ 15- 20% tổng năng lượng trong ngày. Tuy nhiên loại chất béo sử dụng quan trọng hơn tổng lượng chất béo. Chất béo có hai loại, chất béo bão hòa (còn gọi a-xít béo no) và chất béo không bão (a-xít béo không no). Chế độ ăn có nhiều a-xít béo no (có nhiều trong mỡ, bơ, thức ăn nhanh, thức ăn công nghiệp được chế biến ở nhiệt độ cao) làm tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành. Theo các khuyến cáo gần đây lượng acid béo no nên dưới 10% tổng năng lượng.

Trong khi đó a-xít béo không no làm giảm nguy cơ này. Khi thay thế a-xít béo no bằng acid béo không no có tác dụng làm giảm nguy cơ tim mạch. Tuy nhiên năng lượng từ a-xit béo này không nên vượt quá 10% tổng năng lượng. Vì thế các chuyên gia khuyên mỗi tuần nên có 3 - 5 lần ăn cá, hải sản, thay thế cá cho thịt. Đối với những người không thích ăn cá và hải sản có thể sử dụng dầu cá thiên nhiên mỗi ngày 2-3g.

Chất đường (glucid)

Thay thế a-xít béo no bằng lượng năng lượng từ a-xít béo không no hoặc glucid đều có tác dụng tốt để giảm nguy cơ mắc bệnh xơ vữa động mạch. Cơ cấu khẩu phần nên có trên 55% năng lượng từ glucid.

Chất đạm (protid)

Đạm thực vật có những ảnh hưởng có lợi cho sức khỏe so với đạm động vật, đặc biệt liên quan với tình trạng cholesterol máu. Những nước dùng đạm đậu nành cao có tỉ lệ Tu vong do tim mạch thấp hơn so với những nước ăn nhiều đạm động vật. Nhiều nghiên cứu cho thấy mối tương quan giữa lượng đạm đậu nành ăn vào với giảm nguy cơ bệnh tim mạch và bệnh mạn tính. Các chuyên gia dinh dưỡng của Mỹ khuyến cáo: Để giảm các nguy cơ của bệnh tim mạch nên ăn ít nhất 25g đạm đậu nành/ngày.

Chất xơ (fiber)

Chất xơ có trong thực phẩm hiện diện ở thành tế bào và những thành phần của thực vật không được tiêu hóa. Một số thành phần xơ có khả năng giữ nước cao và được gọi là xơ tan. Xơ tan có trong các lọai thực phẩm như một số trái cây, nước trái cây (mận, quả mọng), bông cải, cà rốt, khoai tây, khoai lang, hành. Xơ tan có khả năng làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch. Ngoài ra, chất xơ còn gây cảm giác no giúp tránh ăn quá nhiều năng lượng gây tăng cân. Do đó khuyến cáo chung khuyên nên ăn 20-35g chất xơ trong ngày.

Rượu (alcohol)

Những nghiên cứu cho thấy nếu tiêu thụ lượng rượu trong mức cho phép liên quan đến giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Tuy nhiên, nếu uống rượu quá nhiều và kéo dài liên quan đến tăng nguy cơ tim mạch, tăng huyết áp và đột quỵ. Lượng khuyến nghị nên dưới 30g alcohol.

Các vi chất dinh dưỡng

Các vi chất dinh dưỡng như các vitamin và khoáng chất rất cần cho quá trình chuyển hóa trong cơ thể. Khi thiếu vitamin B12, B6, a-xít folic làm tăng nguy cơ mắc bệnh mạch máu. Nhưng trong chế độ dinh dưỡng hiện nay, hầu hết còn chưa cung cấp đủ các vi chất, vì thế cần được bổ sung các thực phẩm giàu vitamin (từ rau và trái cây).

Ngoài ra các chất chống oxy hóa cũng ảnh hưởng đến quá trình xơ vữa động mạch. Chế độ ăn có nhiều chất chống oxy hóa (Vitamin E, vitamin A, vitamin C, selen) có thể giảm tới 20-40% nguy cơ bệnh mạch vành.

Bên cạnh đó các muối khoáng vô cùng quan trọng trong chế độ dinh dưỡng, nhất là trong tim mạch. Natri (từ muối ăn) và các chất điện giải khác đều ảnh hưởng đến huyết áp. Khoảng 50% người tăng huyết áp có nhạy cảm với muối. Giảm lượng natri giúp phòng ngừa chứng tăng huyết áp và cũng được xem như một phương pháp điều trị bệnh tăng huyết áp. Khuyến cáo gần đây khuyên nên hạn chế lượng muối ăn vào dưới 5g/ngày bằng cách chọn những thức ăn ít muối và hạn chế ăn thức ăn đóng hộp, không ăn kèm muối khi ăn ví dụ như khi ăn trái cây.

Ngược lại, K, Mg, Ca liên quan nghịch với huyết áp. Chế độ ăn đủ các vi chất này giúp làm giảm huyết áp. Để tăng cường các chất điện giải này bằng cách tăng cường ăn lượng rau, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, và các sản phẩm làm từ sữa ít béo.
Nguồn: Bệnh viện Trung ương Quân đội 108/ Tuổi trẻ
Mạng Y Tế
Nguồn: Alo bác sĩ (http://alobacsi.com/dinh-duong-trong-benh-ly-tim-mach-n388942.html)

Tin cùng nội dung

  • Chăm sóc giảm nhẹ đối với bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn bao gồm liệu pháp dinh dưỡng (xem phần Điều trị triệu chứng) và/hoặc điều trị bằng Thu*c
  • Mọi người đều cần có một chế độ ăn uống khoa học và thường xuyên tập thể dục để có sức khỏe tốt và ngăn ngừa bệnh tật. Bệnh nhân ung thư có những nhu cầu sức khỏe đặc biệt, bởi vì họ phải đối mặt với những nguy cơ liên quan đến tác dụng phụ muộn cũng như sự tái phát của căn bệnh này
  • Chế độ ăn uống lành mạnh và hợp lý sẽ giúp bạn phòng ngừa những nguy cơ mắc bệnh ung thư.
  • Để tìm hiểu thêm các thông tin từ Viện Ung thư Quốc gia (NCI) về dinh dưỡng và điều trị bệnh ung thư, xem bài
  • Thuốc chẹn canxi (CCB= calcium channel blocker) ngăn không cho dòng canxi vào nội bào, làm cản trở quá trình co cơ.
  • Ăn chay trường tránh ăn tất cả các sản phẩm từ động vật, bao gồm thịt, trứng và sữa. Làm sao để có đủ dinh dưỡng cần thiết khi ăn chay trường?
  • Dinh dưỡng là điều thiết yếu. Cần thay đổi chế độ ăn uống hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng để tốt cho sức khỏe và tránh bị ngấy.
  • Những nhà nghiên cứu y học đang tìm hiểu hậu quả của chế độ ăn uống đối với tâm trạng cũng như sức khoẻ tinh thần. Hiện tượng này đôi lúc được gọi là mối quan hệ giữa thức ăn và tâm trạng. Có rất nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời. Ví dụ như việc thiếu vitamin có làm cho con người dễ bị trầm cảm hơn không? Có phải thực phẩm chức năng chỉ giúp cải thiện sức khoẻ tinh thần của người bị suy dinh dưỡng? Cần cung cấp bao nhiêu thực phẩm chức năng là đủ để cải thiện sức khoẻ tinh thần của môt người
  • Suy dinh dưỡng là khi cơ thể bạn không nhận được đủ chất dinh dưỡng từ các loại thực phẩm bạn ăn để hoạt động tốt. Chất dinh dưỡng bao gồm chất béo, tinh bột, chất đạm, vitamin và các khoáng chất. Những chất này cung cấp năng lượng cho cơ thể của bạn. Chúng giúp cơ thể phát triển, sửa chữa mô và điều hòa các quá trình sống.
  • Các thông tin cần thiết giúp thai phụ lập một chế độ dinh dưỡng lành mạnh trong quá trình mang thai.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY