Sức khỏe hôm nay

Nhiễm enterovirus ở trẻ sơ sinh

Bệnh do nhiễm Enterovirus, hay còn gọi là Enterovirus không gây bại liệt (EV) là bệnh lý trầm trọng và là vấn đề sức khỏe quan trọng ở trẻ sơ sinh. Bệnh có thể diễn tiến nặng gây rối loạn chức năng đa cơ quan dẫn đến Tu vong.
Bệnh do nhiễm Enterovirus, hay còn gọi là Enterovirus không gây bại liệt (EV) là bệnh lý trầm trọng và là vấn đề sức khỏe quan trọng ở trẻ sơ sinh. Bệnh có thể diễn tiến nặng gây rối loạn chức năng đa cơ quan dẫn đến Tu vong.

Tỉ lệ Tu vong do bệnh ở nhóm tuổi sơ sinh cũng được ghi nhận nhiều hơn các nhóm tuổi khác.

Giữ gìn vệ sinh cá nhân để phòng lây nhiễm Enterovirus.

Nguy cơ mắc bệnh cho trẻ sơ sinh xảy ra vào 2 tuần lễ đầu đời

Nhiễm EV ở trẻ sơ sinh phổ biến vào những tháng hè và đầu mùa thu. Khoảng 60 - 70% số trẻ bệnh chẩn đoán được trong 10 ngày đầu sau sinh do lây nhiễm từ mẹ trong lúc sinh. Mẹ mang thai bị bệnh thường biểu hiện sốt do bệnh tiêu hóa, hô hấp trong vòng 2 tuần trước sinh có thể truyền virút cho trẻ khi sinh ra. Nhiễm trùng bào thai hiếm gặp nhưng nặng và gây Tu vong. Nhiễm trùng chu sinh tại các phòng dưỡng nhi được cho là đường lây lan quan trọng ở trẻ sơ sinh. Lây nhiễm EV sau sinh cũng thấy thường xảy ra vào khoảng thời gian đỉnh điểm của mùa dịch, nhiều nguồn lây từ trong bệnh viện đến cả bên ngoài, sau khi trẻ xuất viện khỏi khoa dưỡng nhi bao gồm mẹ, người thân khác trong gia đình và cả nhân viên bệnh viện.

Sốt là triệu chứng sớm nhất

Những nghiên cứu hồi cứu cho thấy đây là nguyên nhân thường gặp nhất gây sốt không rõ nguyên nhân ở trẻ sơ sinh phải nhập viện, chiếm đến 53 - 63% những trường hợp nhập viện vì sốt. Sốt là triệu chứng duy nhất của bệnh, một số trẻ có thêm những biểu hiện không đặc hiệu khác như kích thích, lơ mơ, bú kém, nôn ói, tiêu chảy, phát ban và những dấu hiệu nhiễm khuẩn hô hấp trên. Nhiều trường hợp được chọc dò tủy sống vì sốt đã phát hiện có viêm màng não, dù vậy không có dấu chứng lâm sàng nào giúp phân biệt được trẻ có hay không bị viêm màng não.

Đặc điểm tổn thương đa cơ quan nặng

Bệnh nhiễm EV nặng ở trẻ sơ sinh là hội chứng tổn thương đa cơ quan gồm viêm gan, viêm não màng não, viêm cơ tim, rối loạn đông máu, nhiễm trùng huyết và viêm phổi. 2 bệnh cảnh lâm sàng chính là hội chứng viêm não tim gồm viêm cơ tim nặng kèm theo suy tim và viêm não màng não và hội chứng viêm gan xuất huyết, gồm viêm gan nặng kèm theo suy gan và rối loạn đông máu nội mạc lan tỏa. Hội chứng đầu tiên thường do virút Coxsacki nhóm B, còn hội chứng thứ 2 do Echovirus 11. Những triệu chứng gồm sốt, nhiệt độ thay đổi, kích thích, lơ mơ, giảm trương lực cơ, bú kém, nôn ói, bụng trướng, ngưng thở, co lõm, rên rỉ và phát ban. Dấu hiệu thần kinh có thể gặp là cổ gượng, thóp phồng. Khi diễn tiến đến tổn thương não biểu hiện lơ mơ, co giật và dấu hiệu thần kinh khu trú. Triệu chứng viêm cơ tim gồm tim to, kích thước gan to hơn, kém tưới máu, suy tim ứ huyết, toan chuyển hóa, và loạn nhịp tim. Những dấu hiệu lâm sàng của tổn thương gan nặng gồm gan to, vàng da, tăng men transaminase và tăng bilirubin máu. Sự kết hợp lâm sàng của đông máu nội mạc rải rác và những dấu hiệu nhiễm trùng huyết do bội nhiễm vi trùng làm không thể phân biệt được với bệnh lý khác. Trẻ bị viêm phổi có khi phải cần thở máy. Suy thận, xuất huyết nội sọ, xuất huyết thương thận, viêm ruột hoại tử và tăng tiết ADH không thích hợp cũng có thể xảy ra.

Những thay đổi cận lâm sàng gồm dịch não tủy hiện diện nhiều tế bào, X-quang phổi có hình ảnh thâm nhiễm, tăng bilirubin máu, tăng bạch cầu và tăng men gan transaminase. Viêm gan nặng có thể gặp do nhiễm Echovirus hoặc có thể xảy ra cùng với viêm cơ tim và những tổn thương khác trong bệnh nhiễm virút Coxsacki nhóm B. Viêm gan nặng thường là hậu quả do nhiễm Echovirus 11, ở trẻ sơ sinh còn ghi nhận Echovirus các nhóm huyết thanh 6, 7, 9, 14, 17, 19 và 21 cũng gây tổn thương đáng chú ý ở gan, hoại tử nhiều và suy gan nặng. Viêm cơ tim sơ sinh thường do nhóm Coxsackievirus nhóm B type huyết thanh từ 2 - 5.

Chưa có Thu*c đặc trị

Điều trị hội chứng nhiễm trùng EV ở trẻ sơ sinh nhằm hướng về các tác nhân có liên quan với triệu chứng. Cấy dịch cơ thể tìm vi trùng và virút đồng thời dùng ngay kháng sinh diện rộng trong lúc chờ kết quả. Acyclovir sử dụng cho đến khi loại trừ nguyên nhân HSV. Nguyên tắc điều trị chủ yếu là nâng đỡ. Truyền tĩnh mạch gammaglobulin đã được báo cáo qua các nghiên cứu cỡ mẫu nhỏ nhưng chứng cớ hiệu quả chưa rõ ràng.

Khoảng 75% các trường hợp bệnh do EV ở trẻ sơ sinh có tiên lượng tốt với điều trị thông thường. Số còn lại gây biểu hiện toàn thân nặng như viêm não màng não, trụy tim mạch, viêm cơ tim hoặc viêm gan.

EV có mặt khắp nơi trong môi trường suốt mùa hè và mùa thu. Rửa tay cẩn thận vẫn là biện pháp có tác động mạnh nhất và hiệu quả nhất trong dự phòng lây lan bệnh ở trẻ sơ sinh.

BSCK2 NGUYỄN THỊ KIM THOA

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-nhiem-enterovirus-o-tre-so-sinh-20213.html)

Tin cùng nội dung

  • Sỏi mật tấn công chủ yếu phụ nữ, và có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm. Vậy còn ai có nguy cơ mắc bệnh sỏi mật?
  • Nhóm các nhà khoa học ở Mỹ vừa công bố kết quả nghiên cứu nhận dạng dấu hiệu để phát hiện tâm thần ở trẻ em.
  • Thận ứ nước là một tình trạng bệnh lý bẩm sinh gây ra do sự hẹp hay tắc nghẽn đường dẫn nước tiểu từ bể thận xuống bàng quang.
  • Táo bón là bệnh lý về tiêu hóa, thường gặp ở trẻ, nhưng hay bị bỏ qua, vì nghĩ bệnh không ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe. Tuy nhiên, táo bón có thể gây ra những hậu quả khó lường.
  • Con người sống và hoạt động là nhờ năng lượng chuyển hóa từ thức ăn, vì vậy tình trạng tiêu hoá kém sẽ gây hậu quả sức khỏe yếu, những người ốm yếu có thể bị chứng tiêu hoá kém.
  • Nghiên cứu cho thấy, có tới 60% trẻ dưới 6 tháng tuổi, có triệu chứng rối loạn tiêu hóa. Hậu quả khiến trẻ chậm lớn, quấy khóc, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng.
  • Mách mẹ những cách tham chiếu để biết con mình khi 0-12 tháng có thông minh, phát triển não bộ tốt hay không.
  • Trẻ sơ sinh là những sinh linh bé bỏng đáng yêu nhưng cũng là những đối tượng bí ẩn của khoa học. 5 thử nghiệm dưới đây được xem là độc đáo và thú vị lần đầu tiên được thực hiện ở nhóm đối tượng này.
  • Viêm màng não (Meningitis) là tình trạng viêm của màng mềm và dịch não tủy khoang dưới nhện. Viêm có thể do các nguyên nhân nhiễm trùng như virus, vi khuẩn, vi sinh vật khác, hoặc do các nguyên nhân không nhiễm trùng.
  • Dây rốn và bánh nhau thường bị bỏ đi sau khi em bé ra đời. Tuy nhiên, một số cha mẹ quyết định trữ máu cuống rốn vì việc này có thể giúp ích khi trẻ bị bênh hiểm nghèo trong tương lai.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY