Bà bầu hôm nay

Chăm sóc bà bầu

Tăng huyết áp trong thai kỳ và sử dụng Thuốc

Tăng huyết áp xảy ra khoảng 10% thai kỳ lần đầu và 8% thai kỳ chung.

Các hình thái tăng huyết áp thai kỳ

Phân loại theo “The National HBPEP Working Group (2000)”.

Tăng huyết áp mạn: khi huyết áp vượt quá 140/90 mmhg trước hoặc trước tuần thứ 20 của hoặc kéo dài tới 6 tuần sau sanh.

Tăng huyết áp thai kỳ: tăng huyết áp phát hiện lần đầu sau tuần lễ thứ 20 mà không có protein niệu. một số trường hợp diễn tiến tiền sản giật, nếu không huyết áp sẽ trở về bình thường sau sanh được gọi là tăng huyết áp thoáng qua của thai kỳ. nếu huyết áp vẫn tăng sau sanh được chẩn đoán tăng huyết áp mạn.

Tiền sản giật: tăng huyết áp phát hiện lần đầu sau tuần lễ thứ 20 với protein niệu hay có ít nhất 300mg/24 giờ.

Sản giật: những cơn co giật không thể quy cho những nguyên nhân nào khác, những cơn này xảy ra sau khi sanh 2 ngày trở lên.

Tiền sản giật trên nền tăng huyết áp mạn.

Một số vấn đề vốn có trong chẩn đoán hội chứng chưa rõ nguyên nhân dựa trên những dấu hiệu không chuyên biệt, chẳng hạn huyết áp ở một bình thường sẽ giảm trong tam cá nguỵệt đầu và giữa, có khuynh hướng về ngưỡng trước trong tam cá nguyệt cuối. bởi vì phụ nữ tăng huyết áp mạn có huyết áp giảm nhiều hơn trong thai đầu, huyết áp của họ gia tăng theo sau ở kế có thể sẽ khởi phát tiền sản giật. ngoài ra những người tăng huyết áp mạn có thể chưa ghi nhận protein niệu trước đó.

Nếu chỉ phát hiện sau tam cá nguỵệt giữa chẩn đoán tiền sản giật chắc chắn hơn.

Phân biệt giữa tăng huyết áp mạn và tiền sản giật là vấn đề quan trọng “tiền sản giật nhiều hơn tăng huyết áp; đó là một hội chứng toàn thân trong đó một số không tăng huyết áp, có những biến chứng có thể đe dọa tính mạng dù huyết áp chỉ tăng nhẹ”. vấn đề xử trí tăng huyết áp và cũng như dự hậu trong tương lai thay đổi theo chẩn đoán, thậm chí tiền sản giật nhẹ có thể diễn tiến nhanh. nếu được chẩn đoán và xử trí đúng nguy cơ cho cả mẹ lẫn con cải thiện tốt.

Phụ nữ nên được đánh giá trước khi có thai. Nếu tăng huyết áp việc điều trị cần loại trừ Thuốc ức chế men chuyển hoặc ức chế thụ thể angiotensin. Khi có bệnh thận cần theo dõi cẩn thận tránh dự hậu không tốt.

Về sinh lý bệnh: bệnh nguyên tiền sản giật được chia 2 giai đoạn, ban đầu tưới máu bánh nhau không đủ, kế đến là phản ứng toàn thân của mẹ. Với những giả thuyết hiện hành, đây là sự di trú thiếu hụt lá nuôi phôi; giảm tưới máu tử cung - bánh nhau; sự kích thích bánh nhau và hội chứng của mẹ.

Phân biệt giữa tăng huyết áp mạn và tiền sản giật là vấn đề quan trọng

Phụ nữ có những yếu tố sau cần theo dõi sát:

- Thai lần đầu, tiền sản giật trước đó, có thai trên 10 năm kể từ lần sanh cuối, chỉ số cơ thể BMI ≥ 35, gia đình có mẹ hay chị đã từng mắc tăng HA thai kỳ, bệnh nhân nhẹ cân, huyết áp tâm trương ≥ 80mmHg, protein niệu ≥ 300mg/24 giờ, có thai nhiều lần.

- Tiền sử có tăng huyết áp, bệnh thận mạn, đái tháo đường trước đó; Tăng huyết áp dựa trên tiêu chuẩn 140/90mmHg của ít nhất 2 lần đo, cách nhau 6 giờ hoặc hơn.

- Protein niệu được định nghĩa ≥ 300mg/nước tiểu thu thập 24 giờ hoặc thu thập 2 lần ngẫu nhiên. Tỷ lệ protein - creatinin trong mẫu nước tiểu ngẫu nhiên là cách hợp lý loại trừ protein niệu đáng kể.

- Tăng acid uric máu cũng quan trọng như protein niệu trong xác định nguy cơ thai kỳ.

Tăng huyết áp xảy ra sau tuần lễ thứ 20 của với protein niệu ở phụ nữ trẻ chưa từng mang thai được nghỉ đến tiền sản giật, đặc biệt có bệnh sử gia đình. bệnh nhân thường không có triệu chứng nên việc chăm sóc trước khi sanh là cốt lõi để phát hiện những dấu hiệu sớm giúp ngăn ngừa những di chứng nguy hiểm khi hội chứng toàn phát.

Mặc dù Tu vong chu sinh toàn bộ lớn hơn với sự gia tăng huyết áp thoáng qua, khả năng chẩn đoán quá đà tiền sản giật đáng kể ở từng bệnh nhân theo dekker & sibai (2001) chỉ có 23 - 33% giá trị tiên đoán âm và 81 - 85% giá trị tiên đoán dương. vấn đề đặt ra cần theo dõi cẩn thận ít nhất vài ngày đến vài tuần huyết áp và nhịp tim thai phụ ở tuần lễ thứ 18 trước khi bác sĩ lâm sàng quyết định chẩn đoán và điều trị.

Khoảng 15 - 20% phụ nữ tiền sản giật sẽ mắc bệnh lần nữa trong những thai kỳ sau đó

Mặt khác ngưỡng huyết áp không cao đáng kể nhưng thai phụ vẫn có thể co giật với huyết áp 160/110 mmHg. Theo báo cáo của National HBPEP Working Group (2000) hầu hết thai phụ diễn tiến chậm tiền sản giật từ mức độ nhẹ đến nặng. Số khác lại diễn tiến nhanh sang thể nặng trong vài ngày hoặc vài tuần. Trường hợp nặng diễn tiến đột ngột vào tiền sản giật nặng hoặc sản giật chỉ trong vài giờ đến vài ngày. Vì thế xử trí lâm sàng tiền sản giật thường quá đà với mục tiêu ngăn ngừa Tu vong chu sinh cho mẹ trong thời gian mang thai.

Hầu hết thai phụ có biểu hiện tăng huyết áp mà không có những rối loạn nào khác bác bỏ tiền sản giật. Tiền sản giật có thể xảy ra 15 - 25% ở thai phụ có tăng huyết áp mạn. Chẩn đoán tiền sản giật đặt lên trên với những dấu hiện sau: Mới khởi phát hoặc tăng đột ngột protein niệu; Ở những thai phụ có tăng huyết áp và không có protein niệu trong giai đoạn đầu thai kỳ (< 20tuần); Ở những thai phụ có tăng huyết áp và có protein niệu trước 20 tuần; Gia tăng huyết áp đột ngột ở thai phụ có tăng huyết áp đã được kiểm soát tốt trước đó; Giảm tiểu cầu (< 100.000/mm3); tăng men gan ALT hay AST bất thường.

Đông máu nội mạch: tăng hoạt hoá tiểu cầu(-thromboglobulin), đông máu(phức hợp thrombin -antithrombin III), và tổn thương tế bào nội mạc (fibronectin and laminin) được đo tới 4 tuần trước khi khởi phát biểu hiện lâm sàng của tiền sản giật.

Hội chứng HELLP: một số diễn tiến biến chứng nặng hơn gọi là hội chứng HELLP liên quan tán huyết, tăng men gan, giảm tiểu cầu. Corticoid có thể hữu ích tuy nhiên việc giục sanh là cần thiết.

Dòng máu não: co giật có thể xảy ra mà không có biểu hiện của tiền sản giật: nhức đầu, mù kiểu vỏ, và xuất hiện dấu hiệu của bệnh não do tăng huyết áp. Co thắt mạch và phù não phản ánh sự gia tăng dòng máu do suy hệ thống tự điều hòa.

Magnesium sulfate được công nhận có vai trò phòng ngừa sản giật.

Bao gồm triệu chứng cơ năng như nhìn mờ, nhức đầu dữ dội, đau hạ sườn phải do chướng bao gan và triệu chứng thực thể như huyết áp > 160/110 mmHg trước và sau 6 giờ nghỉ ngơi; phù phổi; đột quỵ; mù kiểu vỏ; hạn chế phát triển trong tử cung.

Cận lâm sàng thấy Protein niệu > 5g/ngày; thiểu niệu < 500ml/ngày và/ hoặc creatinin/máu > 1,2mg; hội chứng HELLP; tổn thương gan với SGPT/ SGOT gấp 2 bình thường; giảm tiểu cầu < 100.000/mm; đông máu kéo dài hoặc giảm fibrinogen.

Việc chấm dứt luôn là điều trị thích hợp cho mẹ mà không lơ là đối với thai. xử trí sản khoa của tiền sản giật dựa vào khả năng sống còn của thai nhi mà không có những biến chứng sơ sinh đáng kể.

Những thay đổi sinh lý bệnh cúa tiền sản giật nặng biểu hiện tưới máu kém dẫn tới rối loạn sinh lý mẹ và gia tăng bệnh tật cũng như Tu vong chu sinh. Xử trí tiền sản giật bằng tăng bài niệu natri hoặc giảm huyết áp có lẽ gia tăng những thay đổi sinh lý bệnh quan trọng.

Những thay đổi bệnh sinh tiền sản giật thể hiện lâu dài trước khi có tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng. những thay đổi không thể phục hồi này ảnh hưởng đến sức khỏe thai nhi trước khi có chẩn đoán lâm sàng. nếu có cơ sở hợp lý xử trí khác hơn là chấm dứt để cho phép thai trưởng thành và cổ tử cung chín muồi.

Theo jnc-7 chọn lựa Thuốc hạ áp phải an toàn cho mẹ, đường tùy thuộc vào thời gian dự sinh và không ảnh hưởng lên tưới máu tử cung - nhau thai. nếu trên 48 giờ mới sinh methyldopa uống được ưa chuộng vì an toàn. labetalol uống là chọn lựa thay thế. ức chế canxi cũng có thể chấp nhận trong khuôn khổ hạn hẹp. nếu cuộc sanh sắp xảy ra cung cấp theo đường truyền có hiệu quả.

Phân tích gộp gồm 21 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng từ 1966 - 2002 gồm 893 phụ nữ được những Thuốc hạ áp tác dụng ngắn ở thai phụ có tăng huyết áp nặng. hydralazine đi đôi với nhiều tác dụng phụ cho mẹ và thai nhi hơn nifedipine, isradipine hay labetalol (magee et al., 2003).

Magnesium sulfate giúp ngăn ngừa cơn sản giật so sánh với cả placebo (magpie trial collaborative group, 2002) hoặc Thuốc ức chế canxi (belfort et al., 2003). ngoài ra việc magnesium sulfate bảo vệ thần kinh cho trẻ được sinh trước 30 tuần tuổi.

Điều trị tăng huyết áp nặng cấp tính trong tiền sản giật: hydralazine 5mg tm, sau đó 10mg mỗi 20 - 30 phút, tối đa 25mg, lặp lại sau vài giờ khi cần thiết; labetalol 20mg tm, 40mg sau 10 phút, thêm 2 liều 80mg mỗi 10 phút, tối đa 220mg; nifedipine 10mg uống, lặp lại mỗi 20 phút tới liều tối đa 30mg. cẩn thận khi nifedipine với magnesium sulfate, có thể tụt huyết áp nhanh. nifedipine tác dụng ngắn không được cơ quan quản lý thực dược phẩm mỹ(fda) công nhận trong xử trí tăng huyết áp; sodium nitroprusside (khi Thuốc khác thất bại) 0.25 µg/kg/phút tới liều tối đa 5µg/kg/phút. ngộ độc cyanide có thể xảy ra cho thai nhi nếu trên 4 giờ.

Phụ nữ có tiền sản giật sau sanh sẽ có nguy cơ cao tăng huyết áp, đái tháo đường, béo phì (berends et al., 2008). hậu quả là họ sẽ mắc bệnh tim mạch và bệnh thận sau đó (valdes et al., 2009). nguy cơ tức thời các biến chứng nặng thấp, nếu được hướng dẫn và theo dõi thích hợp, họ có thể thay đổi cách sống tốt hơn nhờ trải nghiệm trong suốt trước đó.

Khoảng 15 - 20% phụ nữ tiền sản giật sẽ mắc bệnh lần nữa trong những sau đó. khả năng nhiều hơn với người mang thai tuổi còn trẻ. họ nên được theo dõi cẩn thận trong những theo sau, ngay ở tuần 12.

Dekker and Sibai (2001) chia sự dự phòng thành 3 giai đọan:

Dự phòng nguyên phát hiển nhiên khó do không biết nguyên nhân. Tuy nhiên những yếu tố nguy cơ biết được có thể tránh đặc biệt có thai ở tuổi thiếu niên, giảm tình trạng béo phì cũng như đề kháng insulin, dinh dưỡng thích hợp, tránh đa thai.

Dự phòng thứ phát (cấp 2) liên quan việc nhận biết hội chứng càng sớm càng tốt đưa ra chiến lược tác động vào cơ chế bệnh sinh gồm aspirin liều thấp, acid folic, canxi, dầu cá.

Dự phòng thứ phát (cấp 3) thay đổi lối sống và điều trị như phác đồ xử trí.

Sản giật

Là một thể bệnh não do tăng huyết áp, trên mri khởi đầu là hình ảnh phù não do mạch có thể phục hồi, diễn tiến đến thiếu máu hay nhồi máu não không hồi phục. khoảng 1% ở các nước đang phát triển mắc sản giật.

Xử trí:

Việc chấm dứt được kéo dài cho đến khi khống chế được những cơn co giật, kiểm soát huyết áp, cân bằng nước và điện giải phù hợp. với 245 trường hợp sản giật được điều trị theo tiêu chuẩn trên, chỉ một trường hợp mẹ ch*t, một trẻ sơ sinh sống sót với cân nặng lúc sinh 1.800 gram.

Dùng magnesium sulfate kiểm soát các cơn co giật; kiểm soát tăng huyết áp nặng (huyết áp tâm trương 110mmhg) với truyền ngắt quãng hydralazine. tránh lợi tiểu và những Thuốc tăng áp lực thủy tĩnh. giới hạn dịch nhập trừ khi mất dịch quá nhiều. việc chấm dứt một khi những cơn co giật hết và phục hồi lại ý thức.

BS. ĐOÀN THỊ THANH NGUYÊT

Mạng Y Tế
Nguồn: Sức khỏe đời sống (https://suckhoedoisong.vn/tang-huyet-ap-trong-thai-ky-va-su-dung-thuoc-n152446.html)

Tin cùng chuyên mục

Tin cùng nội dung

  • Trong quá trình điều trị, trẻ em mắc bệnh ung thư thường phải dùng steroid như: prednisone hoặc dexamethasone. Trẻ em dùng steroid thường cảm thấy đói vào mọi lúc và có thể tăng cân.
  • Trễ kinh, mệt mỏi và ốm nghén là những triệu chứng phổ biến nhất của giai đoạn đầu mang thai. Bài viết này cũng nói về những thay đổi khác trong ba tháng đầu thai kỳ.
  • Hầu như những người thấy khó chịu trong ba tháng đầu của thai kỳ thường bắt đầu cảm thấy tốt hơn khi bước qua ba tháng giữa. Giảm bớt triệu chứng buồn nôn và nôn của ốm nghén, ít thay đổi xúc cảm hơn, và bạn sẽ cảm thấy khỏe hơn. Đây là một thời điểm tốt để thực hiện những việc chuẩn bị cần thiết để sẵn sàng chào đón con của bạn.
  • Ba tháng cuối thai kỳ được gọi là “giai đoạn căng của thai kỳ! Cùng với sự phát triển của em bé, bạn sẽ cảm thấy cơ thể mình vụng về và nặng nề hơn. Tuy nhiên, bạn sẽ thích thú với cảm giác cử động của bé. Bản năng làm tổ thôi thúc bạn dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị chào đón bé ra đời.
  • Tập thể dục giúp bạn cảm thấy khỏe khoắn và duy trì cân nặng của mình. Tập luyện còn có thể giúp giảm bớt hoặc ngăn chặn sự khó chịu trong thời gian mang thai. Nó cũng có thể giúp bạn có thêm năng lượng và chuẩn bị cơ thể bạn vào chuyển dạ bằng cách tăng khả năng chịu đựng và sức mạnh cơ bắp. Nếu không mắc bệnh lý nghiêm trọng và đang có một thai kỳ không biến chứng, thường thì tập thể dục là an toàn.
  • Từ khi được thụ tinh cho đến khi sinh, thai nhi sẽ qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau cho đến khi bé đã sẵn sàng để được sinh ra. Bài viết này giới thiệu những điều sẽ xảy ra trong 3 tháng đầu của con bạn.
  • Bộ ba sàng lọc (Triple test) là xét nghiệm máu xác định nồng độ alpha-fetoprotein, human chorionic gonadotropin (hCG) và estriol trong máu mẹ. Kết quả xét nghiệm giúp cho bác sĩ tìm ra những trường hợp em bé có nguy cơ cao hơn bị những dị tật bẩm sinh như hội chứng Down và dị tật ống thần kinh.
  • Siêu âm thai là một xét nghiệm dùng sóng âm thanh để tạo ra hình ảnh của em bé trên màn hình video. Những hình ảnh này giúp bác sĩ đánh giá xem em bé có khỏe không và cũng cho bạn “nhìn trộm” bé một tí.
  • Phụ nữ khi đang mang thai có rất nhiều việc cần phải lo nghĩ, tuy nhiên cũng nên cần phải lưu tâm đến sức khỏe răng miệng.
  • Chỉ cho trẻ uống kháng sinh khi bé thực sự bị nhiễm trùng do vi khuẩn.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY