theo y học cổ truyền, bệnh trĩ phát sinh do tạng phế hư yếu làm hàn khí không thu liễm được, khiến cho đầu ruột lòi ra bên ngoài. để chữa bệnh dứt điểm, y học cổ truyền kết hợp bài Thu*c uống, châm cứu với các bài Thu*c dùng ngoài.
Trĩ là chứng bệnh hình thành do tĩnh mạch ở trực tràng và hậu môn bị giãn, sung huyết và tạo thành búi. Búi trĩ có thể ở bên trong trực tràng hoặc ứ huyết và lòi ra bên ngoài hậu môn.
Theo y học cổ truyền, bệnh trĩ sinh ra là do khí hư, khí trệ khiến đại tràng không thông, làm cho cơ nhục yếu và tổn thương giáng hạ mạch lạc sinh ra tình trạng huyết ứ ở trực tràng hậu môn. nếu không cải thiện khí trệ và huyết ứ kịp thời, mạch lạc giãn ngày càng sa xuống khiến búi trĩ ứ huyết và chảy máu.
Nguyên nhân khiến khí và thấp nhiệt ngưng kết ở đại tràng là do mắc các bệnh nội sinh về tâm tỳ thận, can hoặc thường xuyên ăn thức ăn cay nóng, uống rượu,…
Thấp nhiệt cũng có thể hình thành do thường xuyên ngồi lâu, lao động quá sức và phòng dục quá độ khiến huyết ứ và khí trệ dồn xuống trực tràng – hậu môn.
Nếu không áp dụng phương pháp luận giải phù hợp, bệnh trĩ có thể gây ra các biến chứng như tắc nghẽn búi trĩ cấp tính, sung huyết trĩ cấp tính, u trĩ xơ, viêm tắc tĩnh mạch trên búi trĩ, u trĩ da, rò hậu môn, áp xe,…
Y học cổ truyền chữa bệnh trĩ theo từng thể bệnh riêng biệt. điều này sẽ giúp tác động trực tiếp đến nguyên nhân cụ thể và cải thiện các triệu chứng của bệnh.
Cần quan sát dấu hiệu thực thể của búi trĩ, triệu chứng lâm sàng để xác định thể bệnh và áp dụng bài Thu*c phù hợp.
Dấu hiệu nhận biết: Búi trĩ không lòi ra khỏi hậu môn, thường đi kèm với triệu chứng táo bón và đại tiện ra máu tươi.
Để giải thể bệnh này, cần áp dụng bài Thu*c giúp lương huyết và hoạt huyết để giải phóng huyết ứ trệ ở trực tràng.
Thể thấp nhiệt đặc trưng với các triệu chứng như búi trĩ sưng nóng, loét, đau rát, đỏ, có thể chảy nước hoặc chảy mủ. Khi ngồi gây đau đớn khó chịu, đi kèm với triệu chứng táo bón và tiểu tiện vàng.
Với thể thấp nhiệt, cần sử dụng những thảo dược có tính mát để thanh nhiệt, hành khí, hoạt huyết và cầm máu.
Song song với việc dùng Thu*c, cần kết hợp châm cứu các huyệt như thể huyết ứ, gia thêm huyệt Thượng Cự Hư.
Thấp nhiệt ứ trệ trong cơ thể khiến búi trĩ sưng nóng, đau nhức và buốt ở hậu môn. Khi đại tiện thấy có máu tươi nhưng không thấy dịch vàng hay mủ chảy ra.
Dấu hiệu nhận biết: Búi trĩ lòi ra bên ngoài hậu môn, người mệt mỏi, ù tai, sắc mặt kém, gầy yếu, hoa mắt, mạch trầm tế, đoản hơi.
Trĩ ngoại thể huyết ứ điều trị tương tự như trĩ nội thể huyết ứ. Trĩ ngoại thể nhiệt độc dùng bài Thu*c và châm cứu tương tự trĩ nội thể nhiệt độc.
Tuy nhiên trĩ ngoại là trình trạng búi trĩ lòi ra bên ngoài hậu môn nên cần chú trọng các bài Thu*c rửa và ngâm.
Bên cạnh việc ngâm rửa trĩ thường xuyên, có thể áp dụng các bài Thu*c phá hủy và giảm kích thước của búi trĩ sa.
Các bài Thu*c bôi ngoài ít gây ra tác dụng phụ. Tuy nhiên bài Thu*c chứa thạch tín có thể gây độc, vì vậy phụ nữ mang thai, trẻ em và người có cơ địa nhạy cảm không nên áp dụng.
thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo. trước khi áp dụng cách chữa bệnh trĩ theo y học cổ truyền, bạn cần tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa để được tư vấn cụ thể.
Chủ đề liên quan:
bệnh tr bệnh trĩ cách chữa căn nguyên cổ truyền truyền y học y học cổ y học cổ truyền