Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn tâm thần hôm nay

Rối loạn tâm thần T*nh d*c (chẩn đoán và điều trị)

Đặc điểm chính của kích thích T*nh d*c là chúng thường có nguồn gốc tâm lý ban đầu. Sự nghèo nàn về kinh nghiệm quan hệ T*nh d*c khác giới sẽ càng củng cố đặc điểm này theo thời gian.

Các giai đoạn của hoạt động T*nh d*c bao gồm kích thích, hưng phấn, cực khoái và thoái trào. Gây kích thích chủ yếu là do yếu tố tâm lí. Phản ứng dẫn đến hưng phấn là hiện tượng cả tâm lý và S*nh l* của sung huyết mạch phản ứng đối giao cảm dẫn đến cương cứng ở nam giới và sung huyết môi âm vật ở phụ nữ. Phản ứng cực khoái gồm xuất tinh ở nam giới, co cơ vân đáy chậu ở cả nam giới và nữ giới. Thoái trào là từ từ trở lại trạng thái S*nh l* bình thường.

Khi các kích thích T*nh d*c - phản ứng cương cứng (sung huyết) và cực khoái tạo ra phản ứng riêng lẻ ở những người đã quá thích nghi, chúng có thể được xem như là các giai đoạn riêng rể và có thể tạo ra những hội chứng khác nhau đáp lại những quy trình điều trị khác nhau.

Biểu hiện lâm sàng

Có ba nhóm rối loạn T*nh d*c chính.

Loạn dâm Paraphilias (rối loạn kích thích T*nh d*c)

Trong những tình trạng này (trước đây gọi là “lệch lạc”), những đối tượng T*nh d*c hoặc những định hướng khác có liên quan đến kích thích T*nh d*c khác giới gây ra giai đoạn kích thích của hoạt động T*nh d*c. Những kích thích đó có thể là giày phụ nử, trẻ em, động vật, dụng cụ đánh đập hoặc những vụ xâm kích. Đặc điểm chính của kích thích T*nh d*c là chúng thường có nguồn gốc tâm lý ban đầu. Sự nghèo nàn về kinh nghiệm quan hệ T*nh d*c khác giới sẽ càng củng cố đặc điểm này theo thời gian.

Loạn dục phô trương:

Là hành vi bộc lộ trơ chẽn bộ phận Sinh d*c, nhằm đạt được kích thích T*nh d*c, Đây là hành vi T*nh d*c thời ấu thơ được chuyển lưu sang đời sống trưởng thành.

Loạn dục cải trang:

Là mặc quần áo và đóng vai trò người khác giới nhằm kích thích T*nh d*c, thói quen “mặc quần áo khác giới” có thể là một phần của thủ dâm. Loạn dục cải trang trong đồng tính luyến ái hoặc trong loạn dục chuyển giới không gây ra kích thích T*nh d*c nhưng có thể là sự thể hiện của lệch lạc T*nh d*c đồng giới hoặc rối loạn giới.

Loạn dâm nhìn trộm:

Thể hiện ở việc nhìn trộm người khác giới cởi quần áo hoặc hành động T*nh d*c để tạo kích thích T*nh d*c. Trong cả hai trường hợp loạn dục phô trương và loạn dục nhìn trộm, kích thích T*nh d*c thường dẫn đến thủ dâm. Đây được xem như là sự thay thế hoạt động T*nh d*c.

Loạn dục trẻ em:

Sử dụng trẻ em khác giới nhằm đạt được kích thích T*nh d*c và trong nhiều trường hợp hành vi chủ yếu là chiều chuộng, vuốt ve. Sự tiếp xúc thường theo đường miệng. Tuy vậy điều này tuỳ thuộc ở từng người. Nhìn chung loạn dục trẻ em bao gồm các loại tiếp xúc khác nhau. Ở cả hai giới đều có hành vi này. Nhưng do những yếu tố xã hội và văn hoá nên ở nam giới có tỉ lệ cao hơn. Loạn dục trẻ em thường có những khó khăn trong các mối quan hệ T*nh d*c và nam giới thường là những người bị liệt dương.

Loạn luân:

Bao gồm quan hệ T*nh d*c với người trong gia đình, hầu hết là với trẻ em. Rối loạn này có nhiều điểm giống với loạn dục trẻ em (loạn dục trẻ em trong gia đình). Những cảm giác loạn luân là thường gặp, tuy nhiên các tập tục văn hoá thường cũng đủ mạnh để ngăn cản sự thể hiện những cảm giác T*nh d*c.

Loạn dục với súc vật:

Hành vi giao cấu với động vật nhằm đạt được sự mơn trớn T*nh d*c. Giao cấu với động vật có thể được thực hiện bằng cách đưa bộ phận Sinh d*c người vào sâu bên trong hoặc cho động vật liếm. Hành vi này ở vùng nông thôn hoặc khu vực hẻo lánh có tỷ lệ cao hơn. Đây được xem như là sự thay thế tiếp xúc T*nh d*c hơn là sự khoái cảm.

Loạn dục gây đau chủ động:

Thể hiện ở chỗ thích gây đau đớn cho đối tượng nhằm tạo ra kích thích T*nh d*c, còn loạn dục gây đau thụ động là muốn có được kích thích T*nh d*c bằng cách chịu đau đớn. Phần lớn các hoạt động T*nh d*c đều có yếu tố hung bạo (ví dụ như cắn, xé). Tuy vậy sự chấp nhận T*nh d*c cưỡng bức (ví dụ cưỡng dâm) cũng được xem như là hành động ban đầu của hung bạo.

Loạn dục bị hành hạ:

Là muốn có được khoái cảm T*nh d*c bằng cách để người khác hành hạ, nô dịch, quăng quật. Điều này nguy hiểm đến tính mạng bởi có thể bị xiết cổ hoặc ngạt thở. Ước tính hàng năm có khoảng 1000 trường hợp Tu vong ở nam giới do loạn dục hành hạ (ở nữ, tỉ lệ này thấp hơn nhiều).

Loạn dục xác ch*t:

Là giao cấu với xác ch*t hoặc sử dụng một phần xác ch*t cho mục đích kích thích T*nh d*c. Thường kèm theo thủ dâm.

Lệch lạc xác định giới

Sự xác định giới về cơ bản, phản ánh sự tự nhận thức sinh học rằng “Mình là con trai” hoặc “Mình là con gái” những cái này đã hình thành ở vào giai đoạn 3 - 4 tuổi. Sự khó chịu về giới thể hiện hướng phát triển xác định giới độc lập với hướng sinh học.

Loạn dục chuyển giới (rối loạn xác định giới):

Là sự nỗ lực từ chối hoặc thay đổi giới sinh học bằng cách duy trì sự xác định giới độc lập. Loạn dục chuyển giới không phải là sự lựa chọn giữa hai giới mà thường là sự tiếp nhận giới khác với các thái độ, cảm giác, huyễn tương và thậm chí lựa chọn cả giọng điệu cho phù hợp. Tất cả những điều này đã có mầm mống từ đầu thời kì phát triển. Ví dụ, người đàn ông loạn dục chuyển giới trong hành vi, ngôn ngữ và tưởng tượng thời nhỏ cứ như là phụ nữ vậy. Họ không vượt ra ngoài những kiểu hành vi của phụ nữ, không làm những nghề coi như của đàn ông; họ chẳng thích thú gì với D**ng v*t hoặc như là bằng chứng về nam tính hoặc là cơ quan cho hành vi Sinh d*c. Mong muốn thay đổi giới đã bắt đầu từ rất sớm và có thể tích luỹ, chi phối lối sống kiểu phụ nữ, tìm cách điều trị bằng hormon và phẫu thuật, ví d, cắt bỏ bộ phận Sinh d*c nam và tạo hình *m đ*o.

Loạn dục đồng giới:

Không còn được coi là rối loạn T*nh d*c nữa. Mặc dù vậy Kinsey cho rằng có tỉ lệ cao, nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy khoảng 6% đàn ông và 3% phụ nữ có hành vi T*nh d*c đồng giới ở tuổi trưởng thành. Vấn đề nảy sinh khi cá nhân có những khó khăn trong việc tiếp nhận hoặc định hướng giới hoặc do stress trong xã hội rằng không thể chấp nhận được.

Rối loạn chức năng tâm thần T*nh d*c

Mục này bao gồm một nhóm lớn các rối loạn cương cứng và cực khoái. Ở đây thường bao gồm cả những vấn đề thích ứng giới, giáo dục và kĩ thuật. Những vấn đề này thường được các bác sĩ tuyến cơ sở tranh luận, chẩn đoán và điều trị.

Ở nam giới, có hai dạng rối loạn chính: bất lực và rối loạn xuất tinh.

Bất lực (rối loạn chức năng cương cứng). Là hiện tượng không có khả năng đạt được hoặc duy trì sự cương cứng để đáp ứng hoạt động giao hợp. Người bệnh thỉnh thoảng sử dụng những thuật ngữ để chỉ xuất tinh sớm. Cần phải hỏi bệnh kĩ bởi lẽ rối loạn cương cứng có thể do yếu tố tâm lý, S*nh l* hoặc cả hai. Phần lớn những rối loạn này là do S*nh l* bệnh và ở các mức độ khác nhau và có thể điều trị được. Sau khi vấn đề xuất hiện, trong tiền sử ít khi có cương cứng - đặc biệt cương D**ng v*t ban đêm mà điều này cũng có thể dùng thiết bị đánh giá được hoặc trong nghiên cứu giấc ngủ ở Labô ngủ - thì đây là bằng chứng về căn nguyên tâm lý. Cũng phải thận trọng lưu ý rằng giảm cương cứng D**ng v*t ban đêm có thể xuất hiện ở một số trường hợp bị trầm cảm. Bất lực tâm lý thường do mối quan hệ cá nhân nhân cách hoặc yếu tố nội tâm lý (ví dụ hôn nhân không hài hoà, trầm cảm), Các yếu tố thực thể (thường phát triển từ từ) bao gồm xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, tiểu đường, lạm dụng Thu*c (rượu, nicotin, Thu*c ngủ, Thu*c kích thích) các dược phẩm, các Thu*c chống tiết cholin, các Thu*c hạ huyết áp, các Thu*c kháng histamin, disulíiram, tất cả các Thu*c hướng thần, Thu*c ngủ, oestrogen; suy hệ thống cơ quan (tuần hoàn, tim , phổi, thận), biến chứng sau mổ (cắt tuyến tiền liệt, phẫu thuật mạch, lưng), chấn thương (tổn thương đĩa đệm và dây sống),các rối loạn nội tiết (tuyến yên, tuyến giáp, thượng thận, Sinh d*c), thiếu kẽm, các rối loạn thần kinh (xơ cứng đa ổ, u não, bệnh thần kinh ngoại vi, chấn thương, thiếu máu ác tính, giang mai), những vấn đề về tiết niệu (hẹp bao quy đầu), và những bất thường phát triển tâm thần tiên phát (hội chứng Klinefelter).

Rối loạn phóng tinh. Bao gồm xuất tinh sớm, không có khả năng xuất tinh, và xuất tinh ngược (có người thậm chí bị bất lực vẫn có thể xuất tinh). Xuất tinh thường có quan hệ chặt chẽ với cực khoái. Việc kiểm soát xuất tinh là một hành vi mắc phải tối thiểu ở tuổi thiếu niên với mức độ tối thiểu và tăng dần cùng với kinh nghiệm. Các yếu tố bệnh lý là những yếu tố can thiệp vào quá trình tập kiểm soát, hầu hết là kém hiểu biết T*nh d*c, những yếu tố nội tâm thần (lo âu, tự buộc tội, trầm cảm) và kém thích ứng giữa các cá nhân (những vấn đề về hôn nhân, thiếu trách nhiệm của bạn tình, xung đột quyền lực) đều là những yếu tố thường gặp. Những nguyên nhân thực thể bao gồm sự can thiệp vào phân bố thần kinh giao cảm (thường do phẫu thuật hoặc chấn thương) và ảnh hưởng của các Thu*c (ví dụ, SSRI hoặc ức chế giao cảm). Ở phụ nữ có hai dạng rối loạn chức năng T*nh d*c, phổ biến nhất là co thắt *m đ*o và lãnh cảm.

Co thắt *m đ*o là một đáp ứng có điều kiện, trong đó xuất hiện còn co cơ vùng đáy chậu khi có bất kì kích thích vào khu vực này. Mong muốn là để tránh đưa D**ng v*t vào. Cũng có thể có đáp ứng T*nh d*c và cương cứng. Kích thích vào âm vật cũng có thể gây ra cực khoái.

Lãnh cảm là tình trạng phức tạp, trong đó nhìn chung là không có đáp ứng T*nh d*c. Người phụ nữ có những khó khăn trong tiếp nhận cảm giác T*nh d*c và không có đáp ứng cương cứng. Hoạt động T*nh d*c thay đổi từ né tránh mạnh mẽ T*nh d*c đến thi thoảng có những cơn cực khoái. Đôi khi cũng cần phải phân biệt giữa rối loạn chức năng cực khoái với lãnh cảm.

Trong rối loạn chức năng cực khoái, người phụ nữ vẫn có đáp ứng cương cứng nhưng với các mức độ khó khăn luôn thay đổi để đạt cực khoái. Nguyên nhân của rối loạn chức năng bao gồm kĩ thuật T*nh d*c nghèo nàn, sớm có những chấn thương T*nh d*c, mất hài hoà quan hệ giữa các cá nhân (xung đột vợ chồng, sử dụng T*nh d*c như là phương tiện kiểm soát), và những vấn đề nội tâm thần (lo âu, sợ hãi, buộc tội). Những nguyên nhân thực thể bao gồm bất kỳ tình trạng nào gây ra đau đớn trong quan hệ T*nh d*c, bệnh lý vùng chậu, hẹp cơ học, và thiếu hụt thần kinh.

Rối loạn ham muốn T*nh d*c bao gồm giảm hoặc không có mong muốn T*nh d*c với người khác giới và có thể là do nguyên nhân thực thể hoặc những khó khăn tâm lý (ví dụ lo âu, né tránh ám ảnh sợ). Bất kì một bệnh mạn tính nào cũng đều làm thu hẹp ham muốn. Những rối loạn hormon, bao gồm nhược năng tuyến Sinh d*c hoặc sử dụng các hợp chất kháng androgen như syproteron acetat, và những suy thận mạn tính cũng đều làm giảm hoạt động T*nh d*c. Rượu, Thu*c an thần, Thu*c ngủ, C*n sa và một số loại Thu*c khác cũng có thể ảnh hưởng đến động cơ và hoạt động T*nh d*c.

Điều trị

Loạn dâm và những rối loạn xác định giới tính

Tâm lý:

Rối loạn kích thích T*nh d*c bao gồm lệch lạc hoạt động T*nh d*c (loạn dâm), đặc biệt là những hoạt động mang tính chất bề ngoài (ví dụ loạn dục nhìn trộm) và những rối loạn mới xuất hiện đều có thể được chỉ định liệu pháp tâm lý. Tiên lượng tốt hơn nếu như động cơ xuất phát từ phía cá nhân chứ không phải từ hệ thống xã hội. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng sự can thiệp của luật pháp nhiều khi là động cơ chính để điều trị bởi vì tình trạng bệnh dai dẳng và được củng cố cho đến khi xảy ra những va chạm với pháp luật. Các liệu pháp thường tập trung vào những cản trở với đáp ứng kích thích T*nh d*c bình thường và sự kì vọng chủ yếu vẫn là hành vi lệch lạc sẽ giảm còn hành vi bình thường sẽ tăng.

Hành vi:

Trong các rối loạn vai trò giới tính người ta thường sử dụng kĩ thuật tạo tác và phản hồi song nhìn chung ít kết quả. Trong một số trường hợp các kĩ thuật đóng vai, mô hình hành vi cũng cải thiện những rối loạn kích thích T*nh d*c. Ấn tượng cảm xúc đôi khi có tác dụng làm giảm lo âu trong những vấn đề loạn dục đồ vật.

Xã hội:

Mặc dù không làm thay đổi kiểu kích thích T*nh d*c hoặc vai trò giới tính, các nhóm tự giúp đỡ cũng có tác dụng hỗ trợ quá trình thích ứng với xã hội vốn chưa có thiện cảm. Một điều cũng rất quan trọng khác là cần chú ý đến gia đình. Điều này sẽ giúp cho các cá nhân chấp nhận tình trạng của họ và làm giảm nhẹ tình trạng tự buộc tội.

Thu*c:

Medroxyprogesteron acetat là một chất ngăn chặn động cơ T*nh d*c, thường được dùng để dập tắt những hành vi T*nh d*c rối loạn ở nam giới ở mọi lứa tuổi. Thu*c bắt đầu có tác dụng trong vòng ba tuần và nói chung Thu*c có tác dụng hai chiều. Fluoxetin hoặc các SSRI khác có thể hạn chế một số hành vi T*nh d*c xung động, trong đó có cả loạn dâm. Mặc dù một số trường hợp loạn dục chuyển giới có được điều trị bằng phẫu thuật tái tạo bộ phận Sinh d*c, song nhiều trường hợp bị loại bởi những thời kì sống thử là phụ nữ trước khi phẫu thuật.

Rối loạn chức năng tâm thần T*nh d*c

Thu*c:

Điều quan trọng nhất là phải xác định nguyên nhân có thể điều chỉnh được, thậm chí nếu như tình trạng không thể điều chỉnh được thì việc xác định nguyên nhân đặc hiệu cũng giúp cho người bệnh chấp nhận tình trạng. Cũng cần phải tránh sự mất hài hoà trong đời sống vợ chồng. Trong tất cả những rối loạn chức năng T*nh d*c, bất lực là tình trạng có khả năng có cơ sở thực thể. Do có tác dụng chung là trì hoãn phóng tinh nên các Thu*c SSRI có hiệu quả đối với những trường hợp phóng tinh sớm.

Hành vi:

Sử dụng những kĩ thuật điều kiện đối với các hội chứng do đáp ứng có điều kiện cho những kết quả rất tốt. Có thể sử dụng giải cảm ứng kết hợp với nong Hegar từ từ và kĩ thuật thư giãn để điều trị co thắt *m đ*o. Masters và Johnson đã sử dụng cách tiếp cận hành vi trong tất cả những rối loạn chức năng T*nh d*c cùng với liệu pháp tâm lý hỗ trợ và cải thiện mối quan hệ vợ chồng.

Tâm lý:

Sử dụng liệu pháp tâm lý là sự lựa chọn tốt nhất đối với những trường hợp có khó khăn trong quan hệ cá nhân hoặc những vấn đề nội tâm thần.

Lo âu và buộc tội cha mẹ trong vấn đề giới tính cũng góp phần vào rối loạn chức năng T*nh d*c. Tuy nhiên ngay cả trong những trường hợp như vậy, tiếp cận kết hợp tâm lý - hành vi thường cho kết quả rất nhanh.

Xã hội:

Sự gần gũi của những người khác (ví dụ, mẹ vợ) trong công việc gia đình thường là một yếu tố ức chế trong quan hệ T*nh d*c. Trong những trường hợp như vậy, một số hoạt động xã hội có thể giúp làm nhẹ vấn đề.

Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/chandoantamthan/roi-loan-tam-than-tinh-duc-chan-doan-va-dieu-tri/)

Tin cùng nội dung

  • Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Chế độ ăn BRAT bao gồm chuối, gạo, sốt táo và bánh mì nướng. Chế độ ăn BRAT giúp ích cho trường hợp rối loạn dạ dày, nôn mửa hoặc tiêu chảy. Áp dụng cho cả người lớn và trẻ nhỏ.
  • Khi mang thai quan hệ T*nh d*c có an toàn hay không? Liệu có ảnh hưởng tới thai nhi hay không? Trong khi mang thai, ham muốn T*nh d*c của tôi giảm/tăng thì có bình thường hay không?
  • Chẩn đoán tiền sản là một số xét nghiệm giúp cho bác sĩ biết trước khi sinh thai của bạn có bị một số bệnh lý hay không (thường gặp là hội chứng Down). Chẩn đoán tiền sản gồm chọc ối và sinh thiết gai nhau giúp phát hiện ra những rối loạn di truyền trước sinh.
  • Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
  • Rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention-deficit/hyperactivity disorder: ADHD) là một rối loạn mạn tính ảnh hưởng đến hàng triệu trẻ và thường tồn tại đến tận tuổi trưởng thành. ADHD bao gồm một phức hợp các vấn đề chẳng hạn như khó khăn trong việc duy trì sự tập trung, tăng động (hiếu động thái quá) và có hành vi bốc đồng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY