Chi dùi trống: nguyên nhân do bệnh về hô hấp gồm: ung thư biểu mô phế quản, u trung biểu mô, giãn phế quản, áp xe phổi, mủ màng phổi, u xơ phế nang.
Tăng CO2 huyết: buồn ngủ, lú lẫn, phù gai thị, tay ấm , mạch nảy, các tĩnh mạch giãn nở, tiếng rung/đập thô.
Sự xen kẽ giữa tăng thông khí và ngưng thở, tăng áp lực nội sọ nghiêm trọng, suy thất trái, sống ở vùng cao.
Thở mím môi: thở ra kèm theo hé môi, tắc nghẽn mãn tính đường hô hấp làm trì hoãn việc đóng phế quản .
Lồng ngực không đối xứng: xẹp một bên (do xẹp phổi, xơ hóa) Biến dạng: kiểm tra cột sống (vẹo,gù).
Lồng ngực hình thùng: co rút mảng sườn vùng thấp khi hít sâu. Quan sát sụn thanh quản gần hõm ức. Ngực không di động trong thì hít vào.
Mở rộng những ngón tay và đặt xa ngang xung quanh thành ngực, hai ngón cái mở rộng và gặp nhau ở đường giữa.
- Đặt một bàn tay thoải mái lên một bên thành ngực và sử dụng bàn tay như một thước đo trong việc đánh giá sự giảm di chuyển một bên ngực trong suốt thì hít vào.
Dùng ngón giữa của một tay gõ vuông góc vào đốt ngón giữa của ngón giữa tay bên kia được đặt bằng phẳng trên ngực, ngón tay nên gõ vào những góc bên phải.
Gõ cả hai bên ngực để nghe âm thanh dội lại,gõ phần trên-giữa và những vùng thấp của ngực.So sánh hai bên,nếu có sự khác biệt thì có thể so sánh mặt trước và mặt sau ngực. -Nếu tồn tại vùng đục thì cần gõ xác định giới hạn từ vùng gõ vang đến vùng gõ đục.
Tiếng gõ vang tăng có thể xảy ra trong trường hợp: tràn khí màng phổi (pneumothorax), khí phế thũng (emphysema).
Tiếng gõ vang giảm có thể xảy ra trong trường hợp: tràn dịch (tiếng gõ rất đục,đôi khi đục hoàn toàn), phổi rắn (đông đặc phổi, xẹp phổi, áp xe phổi, khối u).
Luôn ghi nhớ các dấu hiệu trên bề mặt phổi khi gõ, thùy dưới phổi chủ yếu là ở phía sau, còn thùy trên chủ yếu ở phía trước.
Trước khi nghe, yêu cầu bệnh nhân ho khạc đờm, điều này có thể gây âm thanh làm ta nhầm lẫn khi nghe
Yêu cầu bệnh nhân hít thở sâu vừa phải bằng miệng, điều này giúp việc nghe của bạn được chính xác hơn.
Việc sử dụng phần màng của ống nghe sẽ kém hiệu quả nếu bệnh nhân ốm, xương sườn nhô hay có nhiều lông ngực.
Âm thanh nghe được tương tự như âm thanh nghe được trên khí quản (thường là viêm phổi) : khối u, xơ hóa, áp xe. Nhưng không phải do xẹp phổi, tràn dịch(ngoại trừ trường hợp hiếm-xảy ra trên bề mặt phổi)
Âm thanh giảm đi: cho ta biết hoặc không có sự chuyển động của không khí(ví dụ như tắc nghẽn phế quản) hoặc do không khí hay chất lỏng ngăn sự dẫn truyền âm thanh.Gặp trong: tràn dịch màng phổi, tràn khí màng phổi, khí phế thũng, xẹp phổi.
Tiếng cọ màng phối: gây ra bởi viêm màng phổi(do nhiễm trùng hoặc nhồi máu phổi), nhưng phải chắc chắn rằng âm thanh này không phải do sự ma sát của da hoặc lông lên ống nghe..
Tiếng ran ngáy hoặc tiếng thở khò khè: do hẹp đường dẫn khí gây ra tiếng ran ống ( tối đa trong thì thở ra).
Tiếng ran, tiếng lép bép hoặc ran nổ: Nghe rõ: do suy tim hoặc viêm phế nang. Nghe vừa : do nhiễm trùng.
Những bọt khí khô xọc vào phần chất dịch trong phế quản lớn hơn,ví dụ như là giãn phế quản. Nếu ho xong thấy đỡ thì nguyên nhân cho thấy là do phế quản.
Yêu cầu bệnh nhân lặp lại từ “99” (tiếng Anh) trong khi nghe ở ngực trong cùng một khu vực thích chẩn. Âm thanh nghe được sẽ lớn hơn khi nghe ở vùng đông đặc. So sánh âm thanh nghe được ở hai bên với nhau.
Tại bề mặt của khu vực có tràn dịch, từ “99”(phát âm theo tiếng Anh) sẽ được phát âm ra nghe như tiếng kêu be be của con dê, còn được gọi là âm vang (aegophony). Nếu âm thanh phát ra lớn, tiếng ngực thầm có thể nghe được khi yêu cầu bệnh nhân thì thầm “1,2,3,4”.
Để xác định rõ hơn cần tiếp tục kiểm tra các dấu hiệu: ngực chuyển động không đối xứng, sự di lệch của trung thất, tiếng gõ thành ngực.
Lí tưởng nhất là đờm nên được kiểm tra dưới kính hiển vi:vi khuẩn, mủ tế bào, bạch cầu ái toan, amiang, đờm nút .
PCO2 tăng: Dấu hiệu ngoại vi: vùng ngoại vi ấm, giãn tĩnh mạch, mạch nảy, vỗ rung.Dấu hiệu trung tâm: buồn ngủ, phù gai thị, co đồng tử .
Tại giường bệnh: cho bệnh nhân hà hơi thổi khoảng 15 cm từ miệng, với miệng mở rộng dễ dàng miễn thì lưu lượng đỉnh trên 80 l/phút (bình thường là 300-500 l/phút).
Thời gian thở ra: đánh giá tắc nghẽn đường hô hấp có thể được thực hiện bằng cách tính thời gian toàn thì thở ra thông qua việc xem miệng mở rộng sau một hơi thở sâu.Bình thường thì nhỏ hơn 2 giây.
Ngực mở rộng: mở rộng hơn 5 cm từ toàn thì hít vào đến toàn thì thở ra. Biên độ này sẽ giảm nếu căng phồng lồng ngực quá mức do tắc nghẽn đường hô hấp mãn tính.
Lưu lượng đỉnh: một biện pháp đo lường trong tắc nghẽn đường hô hấp-là tốc độ đỉnh của dòng không khí ra khỏi phổi, được đo bằng máy.Gía trị bình thường là 300-500 l/phút.
Nghe: âm thanh hơi thở, âm thanh khác (tiếng lép bép, co thắt phế quản, cọ màng phổi, tiếng khò khè, rung thanh)
Chủ đề liên quan:
bên dòng sông mẹ cà phê làm khởi phát cơn đau nửa đầu cách cách tăng cân nhanh cơn đau cơn đau nửa đầu đau nửa đầu dòng sông giúp nhau đi qua lỗi lầm hô hấp khởi phát làm sao lỗi lầm lồng ngực nơi đầu sóng nửa đầu tăng cân tăng cân nhanh tổ quốc tổ quốc nơi đầu sóng