Sặc ở trẻ em là một T*i n*n khá phổ biến, đặc biệt ở trẻ dưới 1 tuổi. Trước khi kỹ thuật nội soi đường hô hấp ra đời, tỷ lệ Tu vong ở trẻ do sặc dị vật chiếm tới 20% tổng số Tu vong chung.
trẻ bị sặc sữa">Sặc ở trẻ em là một T*i n*n khá phổ biến, đặc biệt ở trẻ dưới 1 tuổi. Trước khi kỹ thuật nội soi đường hô hấp ra đời, tỷ lệ Tu vong ở trẻ do
sặc dị vật chiếm tới 20% tổng số Tu vong chung. Người ta cũng nhận thấy, 80% tỷ lệ sặc dị vật đường hô hấp là ở nhóm trẻ dưới 3 tuổi.
Sặc ở trẻ em xảy ra khi dị vật (thức ăn, nước, sữa, hạt đậu, bi...) lọt vào đường hô hấp của trẻ (trong y văn gọi là hội chứng xâm nhập đường thở).
Ở trẻ em, nguy cơ sặc dị vật thường xảy ra ở trẻ nhỏ tuổi, nhất là nhóm trẻ 1 - 3 tuổi do ở nhóm tuổi này, ý thức nhận biết thế giới chung quanh bắt đầu phát triển và trẻ có xu hướng cảm nhận những vật lạ bằng cách cho vào miệng như ngậm, mút, cắn, nhai đồ vật nhưng lại chưa có răng hàm nên trẻ hay ngậm hoặc nuốt luôn sau đó. Trẻ còn nhỏ tuổi cũng có thói quen khóc, nô đùa... trong khi miệng còn ngậm thức ăn hoặc ngậm đồ vật. Sặc cũng hay xảy ra ở những trẻ chậm phát triển trí tuệ, trẻ bị các bệnh đang phải dùng các Thu*c an thần, chống co giật, trẻ đang bị suy hô hấp do bệnh phổi hoặc tim, trẻ có những rối loạn về nuốt bẩm sinh và xét về giới tính, trẻ em nam bị sặc dị vật hô hấp chiếm khoảng 2/3 số ca (có lẽ do trẻ nam hiếu động hơn trẻ nữ). Bên cạnh đó, trẻ ít tuổi khi bị sặc thường nguy hiểm hơn do đường dẫn khí của phổi (khí phế quản) còn nhỏ nên dễ bị hẹp tắc bởi dị vật và sức chịu đựng tình trạng thiếu ôxy cấp yếu hơn trẻ lớn.
Theo thống kê, các loại dị vật đường thở hay gây sặc ở trẻ em là thực phẩm như hạt lạc, hạt cơm, hạt ngô, hạt các loại quả (na, táo, hồng...), rau, thịt băm, sữa, cháo và những loại dị vật không phải thức ăn bao gồm bi, đinh ốc, hòn tẩy nhỏ, đầu bút chì, viên Thu*c, mẩu đồ chơi... Dị vật to tuy khó gây sặc hơn nhưng lại nguy hiểm hơn do có thể gây bít tắc đường hô hấp lớn.
Ở người lớn, khi bị sặc, dị vật có xu hướng vào bên phổi phải do nhánh phế quản bên phải to hơn, thẳng hơn và dốc hơn bên trái. Ở trẻ em thì ngược lại, hai nhánh phế quản phải và trái tương đối đều nhau cả về kích thước lẫn độ thẳng (hai nhánh đối xứng nhau cho đến khi trẻ 15 tuổi) và dốc nên tần suất dị vật vào phổi phải và trái gần tương tự như nhau. Các biểu hiện của sặc ở trẻ bao gồm các triệu chứng như trẻ đang ăn hoặc chơi đùa, đột ngột ho sặc sụa, nôn ọe, tím tái, khò khè, thở rít, thở chậm hoặc ngừng thở nếu nặng. Người trông trẻ cũng có thể quan sát thấy trẻ ngậm dị vật hoặc thức ăn trước khi bị sặc. Đối với các trường hợp điển hình, việc xác định trẻ bị sặc không có gì khó khăn nhưng trong một số trường hợp như khi trẻ đang bị khó thở do bệnh phổi, trẻ bị sặc nước, thức ăn với số lượng ít... thì việc cảnh giác loại trừ nguyên nhân sặc luôn phải được đặt ra. Bên cạnh đó, các biện pháp cận lâm sàng như chụp Xquang tìm dị vật hoặc hình ảnh phổi viêm xẹp, nội soi khí phế quản bằng ống soi mềm cũng là những biện pháp hữu ích giúp chẩn đoán tính chất, mức độ tổn thương phổi do sặc ở trẻ.
trẻ bị sặc">làm gì khi trẻ bị sặc?
Sặc ở trẻ là một cấp cứu tối khẩn cấp bởi vì nếu bị suy hô hấp nặng, trẻ sẽ nhanh chóng Tu vong hoặc nếu qua khỏi cũng để lại rất nhiều di chứng nặng nề về thần kinh do não bộ bị tổn thương bởi một tình trạng thiếu ôxy quá lâu. Có hai tình huống xảy ra, trường hợp nhẹ, sau khi có biểu hiện ho sặc nhưng trẻ vẫn thở đều, hồng hào, khóc to, nghe không có tiếng khò khè hoặc tiếng thở rít, cần bình tĩnh bế trẻ lên, móc hết thức ăn hoặc dị vật trong miệng trẻ sau đó đưa ngay đến trung tâm y tế gần nhất. Trường hợp
trẻ bị sặc nặng, có biểu hiện suy hô hấp, tím tái, khóc nghẹn, cò cử... cần hết sức bình tĩnh xử trí theo các bước sau: làm thông thoáng đường thở bằng cách móc bỏ thức ăn và dị vật trong miệng, hút sạch mũi, đờm dãi sau đó nhanh chóng làm một thủ thuật để tống dị vật trong đường hô hấp ra (thủ thuật Heimlich đối với trẻ nhỏ) bằng cách đặt trẻ nằm sấp trên cánh tay bạn, đầu chúc xuống thấp hơn ngực, lòng bàn tay đỡ lấy cằm trẻ (nếu trẻ nặng quá thì đặt tay đỡ trẻ lên đùi người cấp cứu), dùng cườm tay kia vỗ mạnh vào lưng trẻ (giữa 2 xương bả vai) 4-5 lần lên tiếp, tốt nhất là vỗ nhanh khi trẻ thở ra để phối hợp đẩy dị vật ra. Cũng có thể đặt trẻ nằm ngửa, đầu thấp sau đó dùng tay còn lại để ấn ngực (vùng xương ức, giữa hai núm vú). Khi dị vật đã bật ra, trẻ sẽ hồng hào trở lại, khóc to và khi đó, người cấp cứu nên kiểm tra lấy bỏ dị vật đã được tống ra miệng. Khi phát hiện hoặc nghi ngờ
trẻ bị sặc, cần nhanh chóng tiến hành cấp cứu bằng thủ thuật trên đồng thời kêu gọi sự giúp đỡ của mọi người chung quanh và nhanh chóng đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất sau đó. Tại cơ sở y tế, trẻ sẽ được khám, kiểm tra và lấy bỏ dị vật (nếu còn) bằng chiếu chụp Xquang phổi và nội soi khí phế quản.
Dù ở gia đình hay nhà trường, vấn đề dự phòng sặc ở trẻ luôn phải được đặt ra. Khi cho trẻ nhỏ ăn, hạn chế nô đùa, hỏi chuyện trẻ; cho trẻ ăn thức ăn thích hợp theo tuổi; cho trẻ ăn miếng nhỏ và dừng ngay khi trẻ có biểu hiện ho khi đang ăn; khi ăn nên bế trẻ hoặc để trẻ ngồi, không cho ăn khi trẻ đang nằm, khi trẻ còn ngái ngủ, khi đang khóc; đối với trẻ lười ăn, không chịu há miệng khi cho ăn, một số bà mẹ thường bịt mũi để trẻ phải há miệng ra, điều này hết sức nguy hiểm bởi trẻ sẽ hít vào kèm luôn cả thức ăn qua đường miệng. Khi trẻ đang bị khó thở do bệnh lý phổi, tim, hết sức chú ý khi cho ăn vì trong trường hợp này trẻ rất dễ bị sặc hoặc bị trớ, nôn. Không cho trẻ chơi với những đồ vật như hòn bi, hạt quả... khi trẻ còn nhỏ. Các bà mẹ, những người chăm sóc trẻ, cô giáo tại các trường mầm non phải được tập huấn về phương pháp cho trẻ bú mẹ, ăn uống sao cho đúng cách cũng như cách phát hiện và xử trí cấp cứu các tình huống sặc xảy ra ở trẻ em.