Sau khi sinh con, chị em thường bị rối loạn tiểu tiện (tiểu tiện són và tiểu tiện không tự chủ). Nguyên nhân sinh ra bệnh theo đông y là do tỳ khí hư nhược hạ hãm;
Sau khi sinh con, chị em thường bị rối loạn tiểu tiện">rối loạn tiểu tiện (tiểu tiện són và tiểu tiện không tự chủ). Nguyên nhân sinh ra bệnh theo đông y là do tỳ khí hư nhược hạ hãm; do thận khí hư nhược không cố nhiếp được; do lúc sinh nở khó khăn làm tổn thương đến bào phu. Nếu không chữa trị kịp thời, bệnh sẽ trở thành mạn tính. Sau đây là một số bài Thuốc trị theo từng nguyên nhân.
Nếu bệnh do tỳ khí hư nhược hạ hãm: Chị em tiểu tiện đi nhiều lẫn sắc trắng, chân tay rã rời, mệt mỏi, nói nhỏ, thở ngắn gấp, lưỡi nhợt, rêu ít, mạch tế nhược.
Phương pháp chữa: Bổ khí thăng đề, sáp niệu. Dùng một trong các bài:
Bài 1: hoàng kỳ, bạch truật, thăng ma, sài hồ, khiếm thực, sơn thù, hoài sơn mỗi vị 12g; đảng sâm 16g; trần bì, cam thảo mỗi vị 6g; tang phiêu tiêu, đương quy mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 2: đảng sâm, hoài sơn, ý dĩ mỗi vị 16g; sài hồ, bạch truật, kim anh, khiếm thực, liên nhục mỗi vị 12g; tang phiêu tiêu 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Nếu bệnh do thận khí hư nhược: Chị em sắc mặt xám, lưng lạnh, chân tay lạnh và thỉnh thoảng đau ngang thắt lưng, đái rắt hoặc đái không tự chủ, lưỡi nhạt, mạch trầm trì. Phương pháp chữa: ôn thận, sáp niệu. Dùng một trong các bài:
Bài 1: thục địa 16g; sơn thù nhục, sơn dược, ích trí nhân mỗi vị 8g; đơn bì, trạch tả, bạch linh mỗi vị 6g; phụ tử chế, nhục quế mỗi vị 4g; tang phiêu tiêu, bổ cốt chỉ mỗi vị 12g. Cho các vị vào nồi, đổ 3 bát nước sắc lấy 1 bát, uống nóng 1 lần.
Bài 2: tang phiêu tiêu, hậu phác mỗi vị 8g; đảng sâm 16g; xích thạch chi 6g; lộc nhung 2g; hoàng kỳ, mẫu lệ mỗi vị 12g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 3: thục địa, phá cố chỉ, ngưu tất, khiếm thực, kim anh mỗi vị 12g; hoài sơn 16g; trạch tả, phụ tử chế, tang phiêu tiêu, phục linh mỗi vị 8g; nhục quế 4g.
Nếu bệnh do bào phu thương tổn: bạch truật (thổ sao), nhân sâm, hoàng kỳ, đương quy, bạch thược mỗi vị 12g; cam thảo 4g; sinh khương 3 lát; hồng táo 3 quả. Sắc uống ngày 1 thang.
Lưu ý:
Bệnh khỏi rồi, tỳ còn hư thì dùng bài Tứ quân tử hoàn: nhân sâm, bạch linh, bạch truật (thổ sao) mỗi vị 80g; cam thảo 40g. Các vị sấy khô, nghiền bột mịn luyện với mật làm hoàn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 12g chiêu với nước sôi.
Nếu do thận hư thì nên bổ thận bằng Lục vị địa hoàng hoàn: thục địa 32g; can sơn dược 16g; đơn bì, phục linh, trạch tả mỗi vị 12g. Các vị tán bột, luyện với mật làm hoàn, viên bằng hạt ngô. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 15 viên với rượu, như vậy chính khí kiện vượng, bệnh không trở lại nữa.
Chú ý: Nên dùng những vị Thuốc bổ, không dùng những vị thông lợi tiểu tiện (xa tiền, ý dĩ nhân, hoạt thạch, trạch tả, mộc thông…) vì chính khí sẽ bị hư, bệnh nặng thêm.
Ngoài ra, người bệnh cần phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, tuyệt đối không nên dùng sức quá độ. Kiêng sinh hoạt T*nh d*c trong thời gian bị bệnh.
BS. Tiểu Lan