Tài liệu y khoa

Xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ không xâm lấn

  • Mã tin: 1607
  • Ngày đăng: 05/02/2023
  • Gian hàng: mangyte  
  • Khu vực: Hà nội
  • Giá: Liên hệ
Mục lục
Hiện tượng lệch bội nhiễm sắc thể ở phôi là một trong những nguyên nhân chính gây thất bại làm tổ, sẩy thai liên tiếp, làm giảm hiệu quả điều trị thụ tinh trong ống nghiệm. Xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ phát hiện phôi lệch bội (Preimplantation Genetic Testing for Aneuploidy) giúp sàng lọc, phát hiện các phôi mang bất thường về số lượng nhiễm sắc thể bằng cách thu nhận 5-10 tế bào lá nuôi phôi (Trophectoderm).

Nội dung Text: Xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ không xâm lấn

TỔNG QUAN Xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ không xâm lấn Trương Văn Hải1,2, Nguyễn Thị Minh Phượng1, Lưu Thị Minh Tâm1, Phan Thị Kim Anh1 1 IVFMD, Bệnh viện đa khoa Mỹ Đức 2 IVFBMT-Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột doi:10.46755/vjog.2021.3.1211 Tác giả liên hệ (Corresponding author): Trương Văn Hải, email: tvhai@bmtuvietnam.com Nhận bài (received): 15/7/2021 - Chấp nhận đăng (accepted): 10/9/2021 Tóm tắt Hiện tượng lệch bội nhiễm sắc thể ở phôi là một trong những nguyên nhân chính gây thất bại làm tổ, sẩy thai liên tiếp, làm giảm hiệu quả điều trị thụ tinh trong ống nghiệm. Xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ phát hiện phôi lệch bội (Preimplantation Genetic Testing for Aneuploidy) giúp sàng lọc, phát hiện các phôi mang bất thường về số lượng nhiễm sắc thể bằng cách thu nhận 5-10 tế bào lá nuôi phôi (Trophectoderm). Tuy nhiên, việc sinh thiết tế bào mang tính xâm lấn và yêu cầu kỹ năng thực hiện của chuyên viên phôi học để bảo đảm tiềm năng của phôi. Ngoài ra, lượng phôi bào chỉ được thu nhận từ lá nuôi phôi không đại diện cho thông tin di truyền của toàn bộ phôi. Trong những năm gần đây, một hướng tiếp cận mới là xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ không xâm lấn đã được nghiên cứu mạnh mẽ nhằm thay thế, khắc phục hạn chế của phương thức truyền thống, sử dụng đối tượng nghiên cứu mới là DNA tự do. Trong quá trình nuôi cấy in-vitro, DNA tự do đã được chứng minh có nguồn gốc từ quá trình chết theo chu trình (apoptosis) hoặc sửa sai của cả lớp tế bào lá nuôi và khối tế bào bên trong (Inner Cell Mas) của phôi, được tiết vào trong dịch khoang phôi hay môi trường nuôi cấy. Các nghiên cứu ứng dụng thu nhận, khuếch đại, phân tích nhiễm sắc thể từ nguồn DNA tự do bước đầu ghi nhận kết quả khả quan, tuy nhiên vẫn cần nhiều cải thiện và phân tích đánh giá sâu trong tương lai.. Từ khóa: Lệch bội, xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ không xâm lấn, ni-PGT, DNA tự do, cf-DNA. Non-invasive preimplantation genetic testing (niPGT) Truong Van Hai1,2, Nguyen Thi Minh Phuong1, Luu Thi Minh Tam1, Phan Thi Kim Anh1 1 IVFMD, My Duc Hospital 2 IVFBMT, Buon Ma Thuot University Hospital of Medicine and Pharmacy Summary Embryo aneuploidy is the most important reason of failed implantation, recurrent miscarriages and IVF failure. Preimplantation genetic testing (PGT) for aneuploidy is a technique developed to analyse the number of chromosomes and select chromosomally healthy embryos. Current PGT methods have biopsied 5 - 10 trophectoderm cells for the sampling of genetic material. However, biopsy protocols remain technically challenging, invasive procedures, which could conceivably impact embryo viability. Furthermore, a single Trophectoderm biopsy might not be representative of the whole embryo. The recent discovery of cell free - DNA within the blastocoele fluid of blastocysts and in spent embryo culture media has led to the interest in the development of non-invasive methods of PGT. Cell free-DNA present is from intracellular contents of embryonic cells that underwent apoptosis during preimplantation embryo development. Many studies have been conducted in the last years to evaluate this technique and many of them reported moderate success rates. Although very promising, non-invasive methods for analyzing embryo ploidy are still at a premature stage, needing further study and standardization protocols. Keywords: Aneuploidy, Non-invasive preimplantation genetic testing, niPGT, cell free DNA, cf-DNA. 1. TỔNG QUAN DNA TỰ DO (CELL FREE-DNA, CF-DNA) từ nhiễm sắc thể (NST) Y trong huyết tương người, từ đó TRONG XÉT NGHIỆM NIPGT mở ra một hướng nghiên cứu mới cho việc phân tích di 1.1. cf-DNA: nguồn gốc và tiềm năng. truyền từ nguồn vật chất di truyền ngoại bào [1]. Trong DNA tự do (cell free-DNA, cf-DNA) là những đoạn lĩnh vực hỗ trợ sinh sản (HTSS), khi nuôi cấy phôi in-vitro, DNA mạch đôi ngắn với kích thước khoảng 180 - 200 bp, một lượng cf-DNA được phát hiện và thu nhận ở dịch được phát hiện đầu tiên vào năm 1948 trong huyết tương khoang phôi (blastocoel fluid - BF) hoặc môi trường nuôi người. Nguồn gốc của cf-DNA được cho là tiết ra từ các cấy đã qua sử dụng (spent culture medium - SCM). Nhiều hoạt động chết theo chương trình (apoptosis) hoặc quá nghiên cứu ủng hộ giả thuyết rằng cf-DNA có nguồn gốc trình hoại tử (necrosis) của tế bào. Năm 1997, Denis và từ phôi bào qua quá trình chết theo chương trình và sửa cộng sự đã phân lập thành công cf-DNA có nguồn gốc sai liên tục trong thời gian phát triển của phôi, dù là phôi Trương Văn Hải và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(3):9-13. doi:10.46755/vjog.2021.3.1211 9

nguyên bội hay dị bội. Hệ quả là sự tiết các mảnh DNA Năm 2012, nghiên cứu của Alessandro và cộng sự vào môi trường nuôi cấy và dịch khoang phôi (đối với đã phát hiện ra một loạt các chất chuyển hóa trong dịch phôi nang), hoạt động này diễn ra ở cả tế bào lá nuôi khoang phôi (BF) [5]. Phương pháp thu nhận từ BF được phôi (Trophectoderm-TE) và khối tế bào bên trong (Inner gọi là blasto centesis, bằng cách cố định phôi nang mở Cell Mas-ICM) [2], [3]. Xét nghiệm di truyền phôi tiền làm rộng bằng kim giữ và sử dụng một vi kim xuyên qua lớp TE tổ không xâm lấn (non-invasive preimplantation genetic ở phần đối diện ICM để hút dịch trong khoang phôi. Thao testing – niPGT) dựa trên cơ sở phân tích nguồn cf-DNA tác hút dịch BF tương tự như thao tác làm sụp khoang được cho là phản ánh đầy đủ thông tin di truyền của toàn phôi (collapse) bằng laser trước khi trữ lạnh phôi, do đó, bộ phôi so với kỹ thuật PGT truyền thống chỉ thu nhận tế việc hút dịch khoang phôi, không làm ảnh hưởng đến tiềm bào TE. Do đó, cf-DNA hiện nay đang được nghiên cứu năng phát triển của phôi. Đối với SCM, cf-DNA được thu ứng dụng như một xét nghiệm mới trong phân tích di nhận bằng cách thu dịch môi trường nuôi cấy xung quanh truyền phôi, là bước tiến mới trong nâng cao chất lượng phôi, không thu nhận phần dầu phủ môi trường. HTSS [4]. Có thể thu nhận cf-DNA từ cả 2 nguồn gồm 2 bước: 1.2. Thu nhận và phân tích cf-DNA đầu tiên là sử dụng vi kim hoặc laser làm sụp khoang Trong xét nghiệm niPGT, cf-DNA được thu nhận từ phôi, để dịch khoang phôi tiết ra ngoài môi trường nuôi ba nguồn: dịch khoang phôi (BF), môi trường nuôi cấy cấy. Sau đó, dùng dụng cụ chuyên dụng thu nhận hỗn phôi (SCM) hoặc kết hợp cả 2 nguồn trên. hợp môi trường nuôi và dịch khoang phôi [6]. Hình 1. cf-DNA được thu nhận từ SCM và BF [6]. Sau khi thu nhận, cf-DNA được khuếch đại toàn bộ Ngược lại, báo cáo của Tobler (2015) cho kết quả gen (WGA) bằng các kỹ thuật tối ưu hiện nay là MALBAC khuếch đại cf-DNA từ dịch phôi nang chỉ đạt 63%, tỷ lệ hay SurePLEX vì độ bao phủ bộ gen cao và tỷ lệ bỏ sót tương đồng NST so với sinh thiết TE đạt 62% và so với allele thấp [7]. Kết quả phân tích thu được bằng phương toàn bộ phôi đạt 48%. Kết quả này thấp hơn nhiều so pháp giải trình tự gen thế hệ mới (Next Generation với các dữ liệu đã công bố trước đó, nguyên nhân có thể Sequencing-NGS). do hiện tượng nhiễm DNA từ khối cumulus quanh noãn 1.3. Một số nghiên cứu ứng dụng niPGT trong quá trình nuôi cấy. Theo những báo cáo hiện tại, Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu phân tích, so sánh tỷ lệ khuếch đại cf-DNA từ BF dao động trong khoảng hiệu quả thu nhận và kết quả di truyền của cf-DNA được 40 - 98% và độ tương đồng với TE khoảng 62 - 97% [10]. thu từ 3 nguồn trên với sinh thiết tế bào TE. cf-DNA thu nhận từ BF có thể là một nguồn tiềm Dịch khoang phôi (BF): năng trong xét nghiệm niPGT. Tuy nhiên, vẫn có một số Năm 2013, Palini và cộng sự đã báo cáo thu nhận, khác biệt giữa các nghiên cứu. Đầu tiên đây vẫn được khuếch đại thành công cf-DNA từ BF bằng phương pháp xem xét là phương pháp xâm lấn tối thiểu; việc sử dụng realtime-PCR với hiệu suất thu nhận đạt 90%. Hàm kim để hút dịch BF có thể làm tổn thương một số tế bào, lượng cf-DNA trung bình thu nhận là 9,9 pg/mẫu tương dẫn đến sự tiết DNA của các tế bào đó làm sai lệch kết đương với hàm lượng DNA của một phôi bào. Ngoài ra, quả phân tích. Ngoài ra, thể tích dịch khoang phôi được nghiên cứu cũng khuếch đại thành công 80% các locus thu nhận dao động từ 0,3μl (được cho là dịch BF) đến trên NST số 16, 17 và giới tính của phôi, mở ra một bước 1μl (bị pha loãng bởi thành phần khác), sự khác biệt này tiến mới trong vấn đề xét nghiệm các bệnh lý đơn gen sẽ ảnh hưởng lớn đến nồng độ cf-DNA thu nhận và kết liên kết với NST giới tính mà không gây xâm lấn phôi [8]. quả phân tích [6]. Tác giả Gianaroli (2014) đã phát hiện có 76,5% mẫu dịch Môi trường nuôi cấy (SCM): khoang phôi có tồn tại cf-DNA. Tỷ lệ tương đồng lần lượt Năm 2015, Wu và cộng sự đã công bố khuếch đại giữa cf-DNA với DNA từ sinh thiết thể cực là 94,9%, sinh và phân tích cf-DNA thành công từ môi trường nuôi cấy thiết TE là 97,4%. Có thể thấy cf-DNA có nguồn gốc từ phôi để chẩn đoán bệnh lý di truyền đơn gen Alpha- BF có thể là một nguồn thay thế tiềm năng so với DNA thalassemia, hiệu quả chẩn đoán đạt 88,6%, so với từ sinh thiết TE trong phân tích NST [9]. sinh thiết TE là 83,7% [11]. Năm 2016, Liu và cộng sự 10 Trương Văn Hải và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(3):9-13. doi:10.46755/vjog.2021.3.1211

đã thành công phát hiện các đột biến Beta-thalassemia DNA trung bình là 38,88 ± 24,08 ng/ml hoàn toàn đủ để thông qua phân tích cf-DNA từ SCM, tỷ lệ tương đồng phân tích, 100% các mẫu BCM có khả năng phát hiện với sinh thiết TE đạt 83,87% [12]. Những dữ liệu trên đã các dạng bất thường cấu trúc NST. Khi so sánh tỷ lệ mở ra một hướng mới cho việc phân tích các bệnh lý di tương đồng NST trong mẫu BCM và TE so với kết quả truyền đơn gen trong HTSS. Nghiên cứu của Capalbo và phân tích toàn bộ phôi (BE - blastocyst-stage embryos) cộng sự năm 2018, thực hiện kỹ thuật niPGT-M thông thì tỷ lệ này lần lượt là 90% và 100% [19]. Nhìn chung, qua phân tích cf-DNA từ SCM, so sánh với kết quả các nghiên cứu nêu trên đều cho thấy lượng cf-DNA thu PGT-M từ những phôi trên cho thấy mức độ tương đồng nhận từ BCM lớn, có thể sử dụng để khuếch đại WGA thấp (trong các nhóm BF và SBM tương ứng, chỉ 2,9% và trực tiếp và phân tích thông tin di truyền của phôi. Tuy 20,8% mẫu có kiểu gen đơn bội hoàn toàn phù hợp với nhiên, mức độ tương đồng với sinh thiết TE vẫn còn mẫu sinh thiết TE). Kết quả này có thể do sự nhiễm DNA khác biệt giữa những nghiên cứu và tương tự như ở quy ngoại lai hoặc/và DNA từ noãn, hoặc do quy trình thực trình thu nhận dịch khoang phôi, phương thức này vẫn hiện chưa đồng nhất [13]. có tính xâm lấn tối thiểu và có thể hoà lẫn DNA phôi bào Hiện nay, phần lớn các nghiên cứu tiến hành thực bị vỡ do thao tác hút dịch. hiện niPGT-A nhằm phân tích bất thường số lượng NST. Theo báo cáo của tác giả Ho và cộng sự năm 2018, tỷ lệ 2. KHUYẾN CÁO THỰC HIỆN NIPGT khuếch đại cf-DNA thành công lần lượt là 39% và 80,4% 2.1. Giảm nhiễm DNA ngoại lai ở SCM thu ở giai đoạn phôi ngày 3 và ngày 5. Sự tương cf-DNA được thu nhận từ môi trường nuôi cấy có đồng về thể nguyên bội và NST giới tính của phân tích thể nhiễm DNA ngoại lai, xuất phát từ tinh trùng hoặc cf-DNA so với sinh thiết TE tương ứng là 56,3% và 81,3% tế bào cumulus quanh noãn hoặc một số nguồn khác ở ngày 3; 65% và 70% ở ngày 5 [14]. Năm 2019, Huang trong quá trình nuôi cấy. Đây cũng là nguyên nhân làm và cộng sự so sánh kết quả của niPGT-A và PGT-A trên cho kết quả phân tích cf-DNA không tương đồng với kết 52 phôi hiến tặng, tỷ lệ dương tính giả ở niPGT-A (20%) quả sinh thiết TE hay của toàn bộ phôi. Nhằm hạn chế thấp hơn so với PGT-A (50%). Đặc biệt, mức độ tương nhiễm DNA từ tinh trùng, hiện nay việc thực hiện “ICSI đồng NST 100% đã được ghi nhận khi phân tích phôi đa toàn bộ” được khuyến cáo đối với niPGT, bên cạnh đó bội [15]. Nghiên cứu đa trung tâm của Vagnini và cộng các khối tế bào hạt bao quanh noãn cũng cần được loại sự cũng cho kết quả tương đồng, giá trị tiên đoán dương bỏ tối đa để hạn chế việc nhiễm DNA từ noãn [20]. Nuôi (PPV, được xác định bằng tỷ lệ giữa số lượng phôi có cấy phôi đơn được đề xuất để đảm bảo rằng nguồn cf- lệch bội được ghi nhận trong xét nghiệm với số lượng DNA được thu nhận có nguồn gốc từ một phôi, tránh phôi lệch bội thực tế) là 93,5% ở niPGT-A, cao hơn so với việc nhầm lẫn thông tin di truyền giữa các phôi. Tuy PGT-A là 78,4%. Cả hai phương pháp đều có giá trị dự nhiên, phương pháp này cần phải sử dụng lượng môi đoán âm (NPV, được xác định bằng tỷ lệ giữa số lượng trường và đĩa nuôi cấy nhiều hơn so với nuôi cấy nhóm phôi nguyên bội trong xét nghiệm so với số lượng phôi [21]. Như vậy, để đảm bảo giảm thiểu nhiễm DNA ngoại nguyên bội thực tế) là 100% và tỷ lệ âm tính giả (FNR) lai thì cần thực hiện kỹ thuật ICSI, nuôi cấy đơn và loại là 0% [16]. Như vậy, các nghiên cứu hiện tại đều cho kết sạch tế bào quanh noãn để đạt được hiệu quả phân tích quả khả quan khi ứng dụng niPGT-A bằng cách thu nhận cao nhất. cf-DNA từ SCM vào thực hành lâm sàng. niPGT-A cho 2.2. Thời gian thu nhận cf-DNA kết quả phân tích tình trạng nguyên bội hoặc dị bội của Đối với nguồn cf-DNA thu nhận từ SCM, nghiên cứu phôi có thể tương đương hoặc cao hơn so với PGT-A. của Wu năm 2015 ghi nhận tỷ lệ khuếch đại cf-DNA ở Kết hợp giữa dịch khoang phôi (BF) và môi trường nuôi giai đoạn phôi dâu ngày thứ 4 chỉ đạt 9,67%, tuy nhiên, cấy (SCM): nếu thu ở giai đoạn ngày 5 thì tỷ lệ có thể đạt đến Nhằm tăng hiệu quả thu nhận và phân tích cf-DNA, 90,16%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa đã có một số nghiên cứu kết hợp thu nhận từ dịch tỷ lệ khuếch đại DNA thành công của giai đoạn thu nhận khoang phôi (BF) và môi trường nuôi cấy phôi (SCM), ngày 5 so với ngày 6 (p  > 0,05). Bên cạnh đó, việc thay gọi tắt là BCM (Blastocyst Culture Medium). Năm 2018, mới môi trường nuôi cấy vào ngày 3 không những không Kuznyetsov đã tiến hành thu nhận cf-DNA từ BCM trên làm mất lượng cf-DNA đáng kể mà còn có thể làm giảm 47 phôi hiến tặng với nồng độ dao động từ 6,3 đến 44,0 tác nhân gây nhiễm từ noãn bào [11]. Tương tự, nghiên ng/μl, hoàn toàn đủ lượng cf-DNA sử dụng cho phân cứu của Lane và cộng sự năm 2017 cho thấy môi trường tích di truyền. Ngoài ra, có thể sử dụng WGA trực tiếp nuôi cấy phôi nang từ ngày 4 đến ngày 5 cho kết quả và không cần phải qua bước xử lý mẫu với enzyme hoặc tương đồng lệch bội chính xác hơn giai đoạn từ ngày 3 tinh chế trước khi tiến hành khuếch đại mà vẫn cho kết đến ngày 5. Điều này có thể được giải thích bởi sự tăng quả không khác biệt [17]. Nghiên cứu của Li và cộng sự cao của cf-DNA ở giai đoạn muộn của phôi và giảm nguy năm 2018 cũng cho thấy tỷ lệ phát hiện cf-DNA trong cơ cf-DNA bị phân huỷ trong quá trình nuôi cấy [22]. Đối mẫu BCM cao (97,5%) nhưng tỷ lệ tương đồng so với với những phôi phát triển chậm, nghiên cứu của Rubio toàn bộ phôi chỉ đạt 50%, tác giả khuyến cáo không năm 2019 trên 1301 phôi nang ngày 6 - 7 từ 8 trung tâm nên sử dụng nguồn cf-DNA từ các mẫu này cho sàng IVF ở 4 châu lục khác nhau cho thấy độ nhạy xét nghiệm lọc lệch bội [18]. Gần đây nhất, tác giả Jiao và cộng sự ở mỗi trung tâm dao động từ 76,5% đến 91,3% và độ đặc (2019) đã khẳng định mẫu BCM cho nồng độ thư viện hiệu từ 64,7% đến 93,3%. Tỷ lệ âm tính giả là 8,3% và tỷ lệ Trương Văn Hải và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(3):9-13. doi:10.46755/vjog.2021.3.1211 11

dương tính giả là 12,4%. Từ dữ liệu trên, những phôi phát maternal plasma and serum,” The Lancet, vol. 350, no. triển chậm ngày 6, ngày 7 hoàn toàn có thể sử dụng để 9076, pp. 485–487, Aug. 1997, doi: 10.1016/S0140- phân tích niPGT mà vẫn phản ánh chính xác tình trạng 6736(97)02174-0. di truyền của phôi [23]. Thời gian thu nhận cf-DNA từ [2]. H. Bolton et al., “Mouse model of chromosome môi trường nuôi cấy phôi hay dịch khoang phôi đều nên mosaicism reveals lineage-specific depletion of tiến hành ở giai đoạn phôi nang ngày 5, hoặc kể cả giai aneuploid cells and normal developmental potential,” đoạn ngày 6 - 7 đối với những phôi phát triển chậm. Nat Commun, vol. 7, p. 11165, Mar. 2016, doi: 10.1038/ ncomms11165. 3. BÀN LUẬN [3]. P. Zhu et al., “Single-cell DNA methylome sequencing Hiện nay, các kết quả nghiên cứu bước đầu cho kết of human preimplantation embryos,” Nat Genet, vol. 50, quả khả quan khi so sánh với phương pháp PGT truyền no. 1, pp. 12–19, Jan. 2018, doi: 10.1038/s41588-017- thống. Phương thức thu nhận cf-DNA dễ dàng và giúp 0007-6. giảm bớt các tổn thương đối với phôi. Ngoài ra, trong [4]. M. Qasemi, R. Mahdian, and F. Amidi, “Cell-free DNA các trường hợp phôi chất lượng kém không đạt tiêu discoveries in human reproductive medicine: providing chuẩn sinh thiết TE thì niPGT cho thấy rõ tiềm năng a new tool for biomarker and genetic assays in ART,” J giúp tăng cơ hội có phôi hữu dụng cho bệnh nhân. Assist Reprod Genet, vol. 38, no. 2, pp. 277–288, Feb. Tuy nhiên, yếu điểm lớn nhất hiện nay của niPGT là 2021, doi: 10.1007/s10815-020-02038-4. chưa có quy trình chuẩn hóa. Sự khác biệt về cỡ mẫu [5]. A. D’Alessandro, G. Federica, S. Palini, C. Bulletti, nghiên cứu, thể tích môi trường thu nhận, giai đoạn phát and L. Zolla, “A mass spectrometry-based targeted triển của phôi dẫn đến sự khác nhau về nồng độ cf-DNA metabolomics strategy of human blastocoele fluid: và kết quả phân tích di truyền. Hầu hết các bộ khuếch đại a promising tool in fertility research,” Mol Biosyst, WGA thương mại hiện nay được thiết kế phân tích cho vol. 8, no. 4, pp. 953–958, Apr. 2012, doi: 10.1039/ thể tích mẫu nhỏ (thường < 10µl) nên nếu tăng lượng thể c1mb05358b. tích mẫu sẽ dẫn đến gia tăng chi phí và giảm hiệu quả [6]. M. Leaver and D. Wells, “Non-invasive preimplantation phân tích, từ đó đặt ra thách thức trong việc lựa chọn genetic testing (niPGT): the next revolution in thể tích mẫu [6]. Ngoài ra, sự khác biệt về nguồn gốc reproductive genetics?,” Human Reproduction Update, phôi tươi hay phôi đông lạnh có thể ảnh hưởng đến nồng vol. 26, no. 1, pp. 16–42, Jan. 2020, doi: 10.1093/ độ cf-DNA. Theo tác giả Kuznyetsov (2018) thì sự thay humupd/dmz033. đổi các yếu tố vật lý, hoá học của hoạt động trữ rã làm [7]. C. Zong, S. Lu, A. R. Chapman, and X. S. Xie, tăng sự chết theo chương trình của tế bào nên có thể “Genome-wide detection of single-nucleotide and copy- tăng lượng cf-DNA được giải phóng vào môi trường nuôi number variations of a single human cell,” Science, vol. cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng phôi đông lạnh sẽ đặt thêm 338, no. 6114, pp. 1622–1626, Dec. 2012, doi: 10.1126/ thách thức trong việc thiết kế quy trình nuôi cấy và thu science.1229164. nhận cf-DNA khi mà các dữ liệu trên phôi trữ còn hạn [8]. S. Palini et al., “Genomic DNA in human blastocoele chế [23]. fluid,” Reproductive BioMedicine Online, vol. 26, no. 6, pp. Các hiểu biết hiện nay về nguồn gốc cf-DNA trên phôi, 603–610, Jun. 2013, doi: 10.1016/j.rbmo.2013.02.012. cách thức thu nhận và phân tích vẫn còn đang được tìm [9]. L. Gianaroli et al., “Blastocentesis: a source of DNA hiểu dẫn đến chưa có một quy trình thống nhất. Các dữ for preimplantation genetic testing. Results from a pilot liệu tiền lâm sàng hiện nay chắc chắn sẽ tiếp tục thúc study,” Fertil Steril, vol. 102, no. 6, pp. 1692-1699.e6, đẩy sự quan tâm đến nguồn vật liệu di truyền này. Cần Dec. 2014, doi: 10.1016/j.fertnstert.2014.08.021. thực hiện nhiều nghiên cứu sâu hơn để có câu trả lời [10]. K. J. Tobler et al., “Blastocoel fluid from chính xác cho lĩnh vực tiềm năng này. differentiated blastocysts harbors embryonic genomic material capable of a whole-genome deoxyribonucleic 4. KẾT LUẬN acid amplification and comprehensive chromosome Xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ không xâm lấn microarray analysis,” Fertil Steril, vol. 104, no. 2, pp. 418– (niPGT) dựa trên cơ sở thu nhận, phân tích cf-DNA có 425, Aug. 2015, doi: 10.1016/j.fertnstert.2015.04.028. trong dịch khoang phôi, môi trường nuôi cấy là hướng [11]. H. Wu et al., “Medium-Based Noninvasive tiếp cận tiềm năng trong phân tích di truyền, cải thiện Preimplantation Genetic Diagnosis for Human một số khiếm khuyết của PGT truyền thống. Nhiều α-Thalassemias-SEA,” Medicine (Baltimore), vol. 94, no. nghiên cứu thực hiện niPGT cho thấy tỷ lệ tương đồng 12, Mar. 2015, doi: 10.1097/MD.0000000000000669. NST so với sinh thiết TE hoặc toàn bộ phôi cao. Tuy [12]. W. Liu, J. Liu, H. Du, J. Ling, X. Sun, and D. nhiên, vẫn còn tồn đọng một số khó khăn nhất định dẫn Chen, “Non-invasive preimplantation aneuploidy đến sự khác biệt dữ liệu ở một số nghiên cứu, đặt ra screening and diagnosis of beta thalassemia IVSII654 thách thức cần xây dựng quy trình thực hiện chuẩn để mutation using spent embryo culture medium,” Ann nâng cao hiệu quả. Med, vol. 49, no. 4, pp. 319–328, Jun. 2017, doi: 10.1080/07853890.2016.1254816. TÀI LIỆU THAM KHẢO [13]. A. Capalbo et al., “Diagnostic efficacy of [1]. Y. M. D. Lo et al., “Presence of fetal DNA in blastocoel fluid and spent media as sources of DNA 12 Trương Văn Hải và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(3):9-13. doi:10.46755/vjog.2021.3.1211

for preimplantation genetic testing in standard clinical conditions,” Fertility and Sterility, vol. 110, no. 5, pp. 870- 879.e5, Oct. 2018, doi: 10.1016/j.fertnstert.2018.05.031. [14]. J. R. Ho et al., “Pushing the limits of detection: investigation of cell-free DNA for aneuploidy screening in embryos,” Fertility and Sterility, vol. 110, no. 3, pp. 467-475.e2, Aug. 2018, doi: 10.1016/j. fertnstert.2018.03.036. [15]. L. Huang, B. Bogale, Y. Tang, S. Lu, X. S. Xie, and C. Racowsky, “Noninvasive preimplantation genetic testing for aneuploidy in spent medium may be more reliable than trophectoderm biopsy,” Proc Natl Acad Sci U S A, vol. 116, no. 28, pp. 14105–14112, Jul. 2019, doi: 10.1073/pnas.1907472116. [16]. L. D. Vagnini et al., “Noninvasive preimplantation genetic test for aneuploidy (NIPGT-A) has a lower false positive rate than that of the invasive PGT-A,” p. 1. [17]. V. Kuznyetsov et al., “Evaluation of a novel non- invasive preimplantation genetic screening approach,” PLoS One, vol. 13, no. 5, p. e0197262, 2018, doi: 10.1371/journal.pone.0197262. [18]. P. Li et al., “Preimplantation Genetic Screening with Spent Culture Medium/Blastocoel Fluid for in Vitro Fertilization,” Sci Rep, vol. 8, no. 1, p. 9275, Jun. 2018, doi: 10.1038/s41598-018-27367-4. [19]. J. Jiao et al., “Minimally invasive preimplantation genetic testing using blastocyst culture medium,” Human Reproduction, vol. 34, no. 7, pp. 1369–1379, Jul. 2019, doi: 10.1093/humrep/dez075. [20]. C. Farra, F. Choucair, and J. Awwad, “Non-invasive pre-implantation genetic testing of human embryos: an emerging concept,” Hum Reprod, vol. 33, no. 12, pp. 2162–2167, Dec. 2018, doi: 10.1093/humrep/dey314. [21]. M. I. Shamonki, H. Jin, Z. Haimowitz, and L. Liu, “Proof of concept: preimplantation genetic screening without embryo biopsy through analysis of cell-free DNA in spent embryo culture media,” Fertility and Sterility, vol. 106, no. 6, pp. 1312–1318, Nov. 2016, doi: 10.1016/j.fertnstert.2016.07.1112. [22]. M. Lane et al., “Ability to detect aneuploidy from cell free DNA collected from media is dependent on the stage of development of the embryo,” Fertility and Sterility, vol. 108, p. e61, Sep. 2017, doi: 10.1016/j. fertnstert.2017.07.192. [23]. C. Rubio et al., “Multicenter prospective study of concordance between embryonic cell-free DNA and trophectoderm biopsies from 1301 human blastocysts,” Am J Obstet Gynecol, vol. 223, no. 5, p. 751.e1-751.e13, Nov. 2020, doi: 10.1016/j.ajog.2020.04.035. Trương Văn Hải và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(3):9-13. doi:10.46755/vjog.2021.3.1211 13

Mạng Y Tế
Nguồn: https://tailieu.vn/doc/xet-nghiem-di-truyen-phoi-tien-lam-to-khong-xam-lan-2519318.html
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY